Diễn Đàn THPT A Hải Hậu
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

BÁCH KHOA TRI THỨC **

Go down

BÁCH KHOA TRI THỨC ** Empty BÁCH KHOA TRI THỨC **

Bài gửi by Admin 30/12/09, 12:20 pm

Tại sao ta thấy người khác giới hấp dẫn
Oxytocin là loại hoóc môn có vai trò quyết định đối với hành vi xây dựng và duy trì quan hệ ở động vật có vú. Ở

người, tuyến yên là nơi sản xuất oxytocin. Nồng độ oxytocin trong cơ thể phụ nữ tăng lên khi họ sinh nở, cho con

bú và quan hệ tình dục. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, hàm lượng oxytocin của phái đẹp cũng tăng lên khi họ

nhìn hoặc chạm vào đứa con mới sinh. Người có nồng độ oxytocin càng cao thì càng dễ tin người khác.

"Khi oxytocin chảy qua huyết quản, chúng ta có xu hướng thấy những người khác giới mà chúng ta không hề

quen biết trở nên đáng yêu hơn", Angeliki Theodorious, một nhà tâm lý của Đại học Bristol (Anh), cho biết.

Giới khoa học đã có bằng chứng cho thấy, oxytocin cũng tham gia vào quá trình xây dựng mối quan hệ giữa

người lớn với nhau. Những nam giới ngửi hoặc uống oxytocin nhớ khuôn mặt người lạ tốt hơn so với người

khác. Người có nồng độ oxytocin cao trong cơ thể cũng thường tỏ ra hào phóng hơn.

Để tìm hiểu vai trò của oxytocin với sự hấp dẫn giới tính, Theodoridou và cộng sự mời 96 nam giới và phụ nữ

tham gia một thử nghiệm. Họ chia tình nguyện viên thành hai nhóm rồi cho một nhóm ngửi oxytocin, còn nhóm

kia ngửi giả dược. Sau đó nhóm nghiên cứu cho họ xem ảnh của 48 người (cả nam và nữ) rồi yêu cầu họ đánh

giá mức độ hấp dẫn và mức độ đáng tin cậy của những người trong ảnh thông qua điểm số.

Kết quả cho thấy, dù vui hay buồn, điểm số về mức hấp dẫn và đáng tin cậy đối với ảnh của người khác giới của

nhóm ngửi oxytocin luôn cao hơn nhóm kia. Nhóm của Theodoridou không tìm hiểu oxytocin tác động tới quá

trình đánh giá sự việc của não thế nào. Tuy nhiên, bà suy đoán rằng hoóc môn này làm giảm hoạt động của

amygdala - vùng não sản sinh cảm giác sợ hãi.

Jennifer Bartz, một nhà tâm lý của Đại học Y khoa Mount Sinai (Mỹ), cho rằng, mặc dù nghiên cứu của

Theodoridou chứng minh rằng cả nam và nữ đều cảm thấy người khác giới hấp dẫn hơn và đáng tin hơn sau khi

ngửi oxytocin, song phản ứng của hai giới có thể khác nhau trong thực tế.

"Chúng ta cần phải tiến hành nghiên cứu khác để tìm hiểu xem liệu có sự khác biệt nào liên quan tới giới tính hay

không", Bartz nói. Nhiều công ty dược phẩm đã nghĩ tới việc kiếm tiền từ oxytocin. Chẳng hạn, một công ty tung

ra loại thuốc xịt có khả năng giúp những người gặp nhau lần đầu cảm thấy tin tưởng nhau hơn. Tuy nhiên, họ chỉ

đưa ra một số bằng chứng mơ hồ về công dụng của nó.

Trong tương lai, liệu người ta có thể tìm ra một loại thuốc xịt có khả năng khiến hai người khác giới lạ mặt yêu

nhau dù chưa biết gì về đối phương hay không ? Theodoridou cho rằng câu trả lời là "không". "Mà nếu có một loại

thuốc như vậy đi chăng nữa thì tôi cũng sẽ phản đối việc tung nó ra thị trường", bà phát biểu.


>>KBZ 16:
Trưa thứ ba là thời điểm căng thẳng nhất trong tuần
Nhiều người lao động tại Anh có một điểm chung khi đều cho biết, 11h45' trưa thứ ba là thời điểm họ cảm thấy

căng thẳng nhất trong mỗi tuần làm việc.

Bimuno - hãng sản xuất các sản phẩm bổ trợ sức khỏe tại Anh - tiến hành lấy ý kiến của 3.000 người lao động

về thời điểm mà họ cảm thấy căng thẳng nhất trong tuần.

"Người ta thường cho rằng thứ hai là ngày làm việc tồi tệ nhất trong tuần, nhưng điều đó không đúng trong cuộc

khảo sát của chúng tôi. Thứ ba mới là ngày tồi tệ nhất, xét trên cả phương diện khối lượng công việc và mức độ

căng thẳng", Graham Waters, một chuyên gia của Bimuno, nói.

Kết quả cho thấy, khoảng một nửa người tham gia cho biết 11h45' sáng thứ ba là thời điểm họ cảm thấy căng

thẳng nhất. Ngoài ra, người lao động cũng có xu hướng bỏ bữa trưa để làm việc trong thứ ba. Hơn 53% thừa

nhận họ không chú tâm vào công việc trong thứ hai và 20% nói họ thường rời khỏi nơi làm việc muộn hơn

thường lệ vào thứ ba.

Nhưng điều đáng lo ngại nhất là 23% người tham gia khẳng định họ cảm thấy căng thẳng vào mọi ngày làm việc

trong tuần và gần 15% cho rằng họ phải hứng chịu áp lực quá lớn. Khi được hỏi về nguyên nhân gây nên căng

thẳng, 12% đổ lỗi cho "sếp", trong khi 9% đổ lỗi cho đồng nghiệp.

Fiona Hunter, một chuyên gia dinh dưỡng hàng đầu tại Anh, nói: "Một thực tế là nhiều người đang hứng chịu sự

căng thẳng trong công việc. Nó có thể khiến chúng ta cảm thấy chán ăn và gây hại cho hệ tiêu hóa. Bạn nên

uống đủ nước, chọn thực phẩm phù hợp và dùng các sản phẩm bổ trợ sức khỏe để tăng cường khả năng miễn

dịch của cơ thể. Một cơ thể khỏe mạnh có thể giúp chúng ta vượt qua trạng thái căng thẳng, mệt mỏi khi phải

làm việc vất vả".


>>KBZ 17:
Phụ nữ dễ tiêu hoang trước ngày 'đèn đỏ'
Một nghiên cứu cho thấy, trong 10 ngày trước khi chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu, phái đẹp thường không kiểm soát

được hành vi tiêu tiền khi họ đi mua sắm.

Trước đây nhiều nhà tâm lý tin rằng mua sắm lu bù là một trong những cách để phụ nữ đối phó với sự đảo lộn

hoặc mất cân bằng tâm lý do những thay đổi hoóc môn gây nên trước chu kỳ kinh nguyệt. Để kiểm chứng giả

thuyết này, các chuyên gia Đại học Hertfordshire (Anh) mời 443 phụ nữ tham gia một thử nghiệm. Nhóm nghiên

cứu yêu cầu tình nguyện viên theo dõi số tiền chi tiêu từng ngày trong tháng. Công việc này được thực hiện trong

nhiều tháng.

Các chuyên gia nhận thấy khả năng kiểm soát chi tiêu của những người phụ nữ này thay đổi theo chu kỳ. Cụ thể,

gần 2/3 tình nguyện viên thừa nhận họ sẵn sàng mua những thứ thật sự không cần thiết trong những ngày cuối

của chu kỳ. 63% nói rằng, so với những ngày khác trong tháng, họ tiêu nhiều hơn trong 10 ngày trước khi chu kỳ

mới bắt đầu.

"Phụ nữ có xu hướng tiêu tiền nhiều hơn và ít tính toán chi li hơn nếu họ đi mua sắm vào trong 10 ngày trước khi

kỳ kinh bắt đầu", giáo sư Karen Pine, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.

Theo Pine thì phụ nữ luôn cảm thấy buồn chán, cáu giận hoặc căng thẳng trong khoảng thời gian trước chu kỳ

do những thay đổi hoóc môn (hiện tượng này xảy ra hàng tháng). Vì thế mà nhiều chị em, đặc biệt là những

người có thu nhập trung bình và cao, coi mua sắm là một trong những biện pháp để xua đuổi những cảm xúc

tiêu cực.

"Với phụ nữ, mua sắm là cách hợp lý hơn để giải tỏa cảm giác căng thẳng so với uống rượu hoặc sử dụng chất

kích thích. Nếu chị em lo lắng về nguy cơ tiêu xài phung phí thì họ không nên đi mua sắm trong những ngày

trước ngày hành kinh đầu tiên", Pine nhận xét.



>>KBZ 18:
Điều gì khiến con người khác với loài chuột?
Theo các nhà nghiên cứu, có một loại tế bào não bị bỏ sót lâu nay hình thành một trong những khía cạnh khiến

bộ não con người khác về cơ bản so với não của chuột nhắt hay chuột cống. Họ công bố phát hiện của họ trên

số ra ngày 11 tháng 3 tờ Neuroscience.

Các nhà khoa học thuộc Đại học trung tâm Y tế Rochester nhận thấy các tế bào hình sao ở người (những tế bào

được cho là chỉ hỗ trợ những tế bào não phát sáng, hay chính là nơron truyền tín hiệu điện) lớn hơn, nhanh hơn

và phức tạp hơn nhiều so với tế bào sao trong não chuột nhắt và chuột cống.

Tác giả kiêm tiến sĩ Nancy Ann Oberheim đồng thời là một sinh viên y khoa vừa mới hoàn thành luận văn tiến sĩ

về tế bào não hình sao cho biết: "Không có nhiều giữa khác biệt giữa não của người và não của loài gặm nhấm,

nhưng chúng tôi lại phát hiện thấy những khác biệt lớn trong tế bào hình sao. Những tế bào hình sao của chúng

ta nhanh hơn, lớn hơn và phức tạp hơn. Điều này có ý nghĩa lớn đối với phương thức mà não chúng ta xử lý

thông tin".

Nghiên cứu là một trong những khảo sát mở rộng nhất về tế bào não hình sao. Oberheim cùng các cộng sự đã

phát hiện một dạng tế bào sao trước đây chưa hề được biết đến chỉ có trong não người chứ không có trong não

của chuột. Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy dạng tế bào sao phổ biến nhất - tế bào sao nguyên sinh, lớn hơn

khoảng 2,6 lần so với tế bào cùng loại ở chuột. Trong khi đó các tế bào của người có các quá trình hoặc cấu trúc

liên quan đến các tế bào khác nhiều hơn gấp 10 lần so với loài chuột.

Chuyên gia thần kinh học Maiken Nedergaard, người chỉ đạo nghiên cứu, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa thể hiểu

thực sự tại sao não của con người lại có nhiều khả năng hơn não của các loài động vật khác. Một số người nghĩ

rằng đơn giản là não của con người lớn hơn thì đa tài hơn nhưng não của loài voi lớn hơn não của chúng ta

những nó lại không thực sự tháo vát. Vậy nên kích cỡ không phải là câu trả lời".

Nedergaard vừa có buổi nói chuyện tuần trước tại Hội nghị nghiên cứu Gordon thêm rằng: "Có thể bộ não con

người có nhiều khả năng hơn là do những tế bào sao của chúng ta phức tạp hơn cũng như mang năng lực xử lý

cao hơn. Các nghiên cứu ở loài gặm nhấm cho thấy những tế bào không thuộc hệ thần kinh cũng tham gia vào

quá trình xử lý thông tin, còn nghiên cứu của chúng tôi cho rằng chính những tế bào sao mang chức năng nhận

thức cao đã quy định chúng ta là con người".

Các tế bào hình sao từ lâu vốn được cho là các tế bào hỗ trợ một cách thụ động, một phương tiên để gắn kết

các tế bào não với nhau giống như keo dính. Nhiều sinh viên y học có thể chỉ mất vài phút cân nhắc đến những

tế bào hình sao trước khi chuyển sang họ hàng của chúng - chính là các nơron truyền các tín hiệu điện có tầm

quan trọng lớn đối với hầu hết những gì chúng ta làm. Chính hoạt động của các nơron đã tạo nên cái mà hầu hết

các nhà khoa học cho là hoạt động của bộ não. Và chính các nơron là đối tượng của các loại dược phẩm hiện

có nhằm vào tế bào não. Nếu các tế bào sao thực sự quan trọng, lý do có thể là vù chúng giúp tạo ra môi trường

lành mạnh hơn cho các nơron.

Hóa ra tế bào hình sao nhiều gấp 10 lần nơron, chúng bị đẩy đến ranh giới của khoa học thần kinh chỉ vì các

công cụ được sử dụng trong nghiên cứu bộ não. Các nhà khoa học xác định tín hiệu giữa các tế bào não chủ

yếu bằng cách quan sát hoạt động điện. Những các tế bào sao không phát sáng giống như nơron, do đó các kỹ

thuật thông thường không thể ghi lại hoạt động của chúng. Khi các nhà khoa học sử dụng kỹ thuật thông thường,

họ không thể chứng kiến được điều gì.

Ngoài việc nhận ra tính không hoàn thiện của công cụ, các nhà khoa học cũng cho rằng các tế bào sao khá tĩnh

lặng. Do đó Nedergaard đã tạo ra một phương thức mới nhằm phát hiện hoạt động của tế bào sao, từ đó phát

triển hệ thống laze phức tạp để quan sát hoạt động bằng cách xác định lượng canxi bên trong tế bào. Nhóm

nghiên cứu của bà đã phát hiện ra cái có thể được gọi là đời sống bí ẩn của tế bào sao, đồng thời mang lại một

loạt phát hiện gây sửng sốt. Tế bào sao sử dụng canxi để truyền tín hiệu đến các nơron, và các nơron đáp lại tín

hiệu này. Nơron và tế bào sao truyền tín hiệu qua lại, điều này cho thấy tế bào sao là đối tác trong "giao dịch" cơ

bản của não bộ, chúng chính là trung tâm của các tình trạng như đột quỵ, Alzheimer, động kinh và chấn thương

cột sống.


Trong bức ảnh chụp mô não, tế bào hình sao có màu vàng. (Ảnh: Image courtesy of University of Rochester

Medical Center)


Oberheim cho biết: "Niềm tin giáo điều rất khó thay đối, và một trong những niềm tin giáo điều của khoa học thần

kính là việc tế bào sao chỉ là những tế bào hỗ trợ không làm tròn nhiệm vụ. Quan điểm này sẽ phải mất một thời

gian để thay đổi, nhưng các nhà khoa học đang dần ý thức được. Những tế bào sao hiện giờ đã được coi là

thành viên tích cực trong các chức năng của não bộ cũng như quá trình xử lý cảm biến".

Hai hệ thống tín hiệu của bộ não - một bao gồm các nơron, và hệ thống còn lại bao gồm các tế bào hình sao -

có tác động bổ trợ cho nhau. Nơron truyền tín hiệu cực nhanh trong một khoảng cách dài - ví dụ như bàn tay

chúng ta chạm vào lò sưởi nóng, bộ não phát hiện ra nguy hiểm và điều khiển đưa tay ra xa ngay lập tức. Các tế

bào hình sao thì ngược lại, chúng truyền tín hiệu chậm hơn. Chức năng của chúng vẫn đang được các nhà khoa

học nghiên cứu.

Nedergaard cho biết: "Bộ não có chứa hai mạng lưới thông tin sử dụng các ngôn ngữ khác nhau. Một mạng lưới

điện tinh vi bao gồm các nơron truyền tín hiệu ngay lập tức. Còn mạng thứ hai chậm hơn nhiều bao gồm các tế

bào hình sao với tốc độ chậm hơn khoảng 10.000 lần nhưng lại có thể xử lý thông tin với mức độ tinh tế hơn

cùng với trí nhớ gợi lại được."

Nedergaard thêm rằng: "Không có một mô nào khác trong tế bào lại được cấu thành từ sự pha trộn giữa hai loại

tế bào hoàn thiện như sự phân bố của tế bào hình sao và nơron trong não. Cả hai đều tạo nên mạng lưới tín hiệu

trải rộng. Nơi và cách thức chúng tương tác khiến bộ não trở thành đề tài có sức lôi cuốn".

Để thực hiện nghiên cứu, nhóm các nhà khoa học đã tìm hiểu mô não được lấy từ 30 người đã trải qua phẫu

thuật đa phần là để chữa chứng động kinh hoặc u não. Họ đã so sánh các tế bào sao trong não người và các tế

bào sao trong não chuột nhắt và chuột cống. Ngoài những phát hiện nói trên, nhóm cũng nhận thấy những sự

khác biệt khác: Tế bào sao ở người truyền tín hiệu nhanh gấp 5 lần tốc độ ở chuột.

Những tế bào sao ở người được tổ chức thành các đơn vị phức tạp hơn gọi là vùng so với tế bào sao của loài

gặm nhấm. Trung bình một con vật thuộc loài gặm nhấp có hàng chục ngàn khớp thần kinh, trong khi nhóm

nghiên cứu nhận thấy một vùng ở người có thể có chứa tới 2 triệu khớp nối. Những vùng này là các nhóm tế bào

có tổ chức cao, dường như chúng được sắp đặt vị trí một cách chính xác, giống như phân tử trong pha lê vậy.

Theo Nedergaard sự tổ chức này rất quan trọng đối với việc xử lý thông tin. Bà cũng nhấn mạnh rằng các tổn

thương não có liên quan đến sự thiếu hụt tổ chức vùng của tế bào hình sao đồng thời chức năng nhận thức bị

suy giảm.

Đối với con người, những tế bào được gọi là tế bào hình sao sơi chủ yếu có chức năng hỗ trợ cấu trúc nhìn

chung lớn gấp đôi tế bào cùng loại ở chuột nhắt và chuộc cống. Ngoài ra, con người cũng có một dạng tế bào

khác gọi là tế bào hình sao liên lớp, dạng tế bào nào không hề có ở chuột. Một sự khác biệt nữa có liên quan đến

điểm cuối của các tế bào hình sao nguyên sinh, chúng bao quanh các mạch máu trong não và được cho là có

vai trò liên quan đến sự lưu thông máu trong não. Những điểm cuối này ở con người bao quanh thành mạch

máu một cách trọn vẹn hơn so với chuột. Có lẽ hiện tượng này giữ một vai trò quan trọng trong việc ngăn các

tác nhân trong máu không xâm nhập vào não cũng như nhằm điều hòa lưu thông máu.

Các tác giả chính bao gồm: giáo sư tiến sĩ Steven Goldman kiêm chủ tịch Khoa thần kinh; thạc sĩ Webster

Pilcher kiêm giảng viên và chủ tịch khoa giải phẫu thần kinh; Jeffrey Wyatt - giáo sư và chủ tịch khoa Y học đối

chiếu; cùng với các trợ lý giáo sư: tiến sĩ Takahiro Takano, tiến sĩ Xiaoning Han, tiến sĩ Wei He, và tiến sĩ Fushun

Wang.

Cùng tham gia nghiên cứu còn có Qiwu Xu và tiến sĩ Jane Lin thuộc Trường Y New Yorrk; thạc sĩ Jeffrey

Ojemann, và tiến sĩ Bruce Ransom thuộc Đại học Washington nơi Oberheim đã hoàn thiện luận văn tiến sĩ của

bà dưới dự giám sát của Nedergaard.

Nghiên cứu nhận được sự hỗ trợ từ Quỹ từ thiện G. Harold và Leila Y. Mathers và Viện đột quỵ và các chứng rối

loạn thần kinh quốc gia.


>>KBZ 19:
Muốn nhớ mặt hãy nhìn vào mắt .
Một nghiên cứu cho thấy nhìn vào đôi mắt là cách tốt nhất để chúng ta lưu giữ khuôn mặt của một người trong

bộ nhớ.

Theo các thử nghiệm trước đây chúng ta thường chỉ tập trung vào một bộ phận trên khuôn mặt khi phân biệt ai

đó với người khác. Các nhà khoa học tin rằng chỉ có một số đặc điểm trên khuôn mặt có thể cung cấp thông tin

tốt nhất để chúng ta nhận ra (hoặc ghi nhớ) một cá nhân nào đó.

Các chuyên gia của Đại học Barcelona (Tây Ban Nha) tiến hành một thử nghiệm để tìm hiểu điều này. Họ sưu

tầm 868 khuôn mặt nữ giới và 868 khuôn mặt nam giới rồi lần lượt giơ các bức ảnh trước một máy tính đặc biệt.

Chiếc máy tính được thiết kế để có thể "nhìn" và ghi nhớ các đặc điểm của khuôn mặt giống như mắt người.

Kết quả cho thấy mắt cung cấp nhiều thông tin rõ ràng nhất về một người, tiếp theo là miệng và mũi. Nhóm

nghiên cứu cũng nhận thấy rằng, việc nhận dạng khuôn mặt trên bức ảnh không bị tác động bởi nền hay hậu

cảnh của ảnh. Họ tin rằng, trong quá trình tiến hóa, những vùng não chịu trách nhiệm phân biệt khuôn mặt chỉ tập

trung xử lý thông tin ở vùng quanh mắt.


>>KBZ 20:
Đàn ông dính lưới tình chỉ trong 8,2 giây .
Các nhà khoa học kết luận các quý ông có thể vướng vào bẫy tình chỉ trong vòng 8,2 giây.

Đây là nội dung một nghiên cứu trên tạp chí khoa học hàng đầu thế giới về tình dục Archives of Sexual Behavior

số tháng này. Các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu với 115 sinh viên. Máy quay bí mật được dùng để theo dõi

chuyển động của mắt những đối tượng này.

Nghiên cứu cho thấy các nam sinh viên thường nhìn trong 8,2 giây với những người họ thấy thu hút. Mắt họ chỉ

dừng lại 4,5 giây nếu nhân vật không mấy hấp dẫn. Tuy thế, điều này không đúng với phái nữ. Các nữ sinh tham

gia trong thử nghiệm này nhìn tất cả các nam diễn viên trong khoảng thời gian bằng nhau.

Các nhà khoa học kết luận rằng nam giới thường tìm bạn tình hợp với họ và có khả năng sinh sản. Trong khi đó,

phụ nữ thường tránh thu hút những sự chú ý không đáng có, do sợ mang bầu không mong muốn hoặc nuôi con

một mình.


>>KBZ 21:
Tiêu tiền có tác động như ma túy
Các nhà tâm lý Đức khẳng định việc tiêu tiền của con người tạo ra cảm giác thỏa mãn trong não giống như các

chất gây nghiện.

Giáo sư Armin Falk của Đại học Bonn và các cộng sự yêu cầu 18 tình nguyện viên điền vào một số phiếu khảo

sát để tìm hiểu về cách thức ra quyết định tiêu tiền của họ. Nhóm nghiên cứu đưa ra hai mức lương giả định,

trong đó một mức cao hơn 50% so với mức kia.

Tuy nhiên, nếu tình nguyện viên nhận mức lương cao hơn thì giá của những sản phẩm mà họ mua cũng tăng

thêm 50%. Điều này có nghĩa là nếu chọn mua một loại sản phẩm thì khả năng mua sắm của toàn bộ tình

nguyện viên bằng nhau.

Trong lúc tình nguyện viên điền thông tin và phiếu khảo sát, các chuyên gia tiến hành chụp vỏ thùy giữa trán

(ventromedial prefrontal cortex) - vùng não chịu trách nhiệm tạo ra cảm giác hưng phấn, thỏa mãn khi con người

dùng ma túy. Nhóm nghiên cứu cho rằng, trong cả hai trường hợp (chấp nhận mức lương cao hoặc thấp), hành

vi tiêu tiền sẽ tạo ra phản ứng giống hệt nhau ở vỏ thùy giữa trán.

Nhưng kết quả không hoàn toàn giống với phán đoán của các nhà khoa học. Các phản ứng trong vỏ thùy giữa

trán của nhóm tình nguyện viên nhận mức lương cao diễn ra mạnh hơn và lâu hơn so với những người nhận

mức lương thấp, mặc dù trên thực tế sức mua của cả hai nhóm bằng nhau.

"Điều này cho thấy mức độ thỏa mãn của con người thường tăng lên cùng với thu nhập. Chúng ta luôn cảm thấy

sung sướng hơn khi nhận mức lương cao hơn mặc dù giá cả thực tế của hàng hóa cũng tăng lên tương ứng.

Phát hiện của chúng tôi củng cố một giả thiết mà theo đó, vỏ thùy giữa trán dễ bị đánh lừa bởi ảo tưởng về tiền

bạc", Falk phát biểu.

Giáo sư Falk cũng nói thêm rằng nhiều nhà kinh tế không tin vào sự tồn tại của khái niệm "ảo tưởng tiền bạc",

nhưng nhiều nghiên cứu gần đây khẳng định dạng ảo tưởng này thực sự tồn tại.


>>KBZ 22:
Cá cũng có tiếng sét ái tình
Loài cá vòi voi không chỉ có phần hàm kéo dài trông giống như chiếc vòi voi, mà chúng còn phát điện. Các tế bào

cơ biến đổi gần đuôi của chúng có thể phóng các xung điện vào trong nước.

Con cá sử dụng điện trường để phát hiện các vật thể xung quanh, đây là một kỹ xảo hữu dụng trong môi trường

tăm tối ở các con sông Châu Phi nơi chúng trú ngụ. Chúng cũng sử dụng các xung điện này (biến đổi về cường

độ, tần số và thời lượng) để giao tiếp với nhau. Một nghiên cứu mới cho biết chúng còn dùng điện trường để tìm

bạn đời cùng loài.

Trong phòng thí nghiệm tại Đại học Potsdam, Đức, Philine G.D. Feulner và các cộng sự đưa con cá vòi voi cái

họ Campylomormyrus compressirostris trong tình trạng sẵn sàng đẻ trứng tiếp xúc với các xung điện khác nhau

được máy tính tạo ra. Ở một đầu bể cá, các xung điện bắt chước con đực cùng loài, ở đầu kia các xung điện lại

bắt chước một loài khá gần gũi với nó cùng sống chung trong một môi trường. Xung điện tạo ra bởi loài họ hàng

kéo dài hơn gần 100 lần so với loài kia, kết quả là con cá cái lảng tránh xung điện đó.

Feulner cùng nhóm nghiên cứu cho rằng sự ưu ái của con cái đối với các tín hiệu điện nhất định có lẽ chính là

nhân tố khiến hai loài cá vòi voi tách biệt nhau. Bên cạnh đó, các nhân tố khác có lẽ đã gây ra sự tách biệt ban

đầu, sự ưu tiên chọn lựa xung điện tiến hóa sau đó có lẽ nhờ vào cái giá lớn phải trả nếu giao phối nhầm loài.

Nghiên cứu được công bố chi tiết trên tờ Biology Letters.


>>KBZ 23:
Người nhanh nhẹn thì sống lâu hơn
Những người luôn phản ứng nhanh nhẹn, hoạt bát trong cuộc sống thì dường như sống lâu hơn những người có

động tác lề mề chậm chạp, một nghiên cứu vừa tiết lộ.

Nhóm nghiên cứu hợp tác giữa Đại học Edinburgh và Trung tâm nghiên cứu Y khoa (Anh) đã tìm hiểu tốc độ

phản ứng của hơn 7.400 người, bắt đầu từ thập kỷ 1980 và theo dõi trong suốt 20 năm sau đó. Tuổi trung bình

của những người được nghiên cứu là 46. Ngoài yếu tố này, một loạt chỉ số khác như mức độ uống rượu, thói

quen hút thuốc, huyết áp và cân nặng cũng được tính đến. Cuối thời điểm nghiên cứu, có gần 1.300 người đã tử

vong.

Các chuyên gia phát hiện thấy những người có tốc độ phản ứng chậm nhất thì cũng có nguy cơ chết yểu cao

gấp 2,6 lần.

Theo nhóm nghiên cứu, phản ứng nhanh có thể là một dấu hiệu của sự thông minh, và từ đó sẽ kéo theo lối

sống thông minh.

"Công trình này chứng tỏ có mối liên quan giữa trí tuệ và tốc độ xử lý công việc", tiến sĩ Geoff Der, một đồng tác

giả của nghiên cứu cho biết.

'Người thông minh hơn thì cũng có xu hướng được giáo dục tốt hơn và làm những công việc có cơ hội thực tập

hay có nguồn lực tốt hơn. Họ cũng chăm sóc sức khỏe bản thân tốt hơn".


>>KBZ 24:
Tại sao chúng ta khó nhớ được giấc mơ?
Lắng nghe "tiếng chuyện trò" của các nơ-ron ở các phần khác nhau của não, các nhà nghiên cứu thuộc Viện

công nghệ California đã đạt được những bước tiến mới trong công cuộc tìm hiểu con đường hình thành, chuyển

hóa và lưu trữ trí nhớ trong bộ não; đồng thời giải đáp câu hỏi quá trình biến đổi qua các giai đoạn khác nhau của

giấc ngủ như thế nào.

Phát hiện của họ một ngày nào đó có thể giúp các nhà khoa học hiểu được tại sao chúng ta khó nhớ được các

giấc mơ.

Từ lâu họ đã biết được rằng trí nhớ được hình thành tại bộ phận mã ngư của bộ nào, nhưng lại được lưu trữ ở

đâu đó. Khả năng cao nhất là ở tân vỏ não - lớp ngoài của não. Quá trình chuyển trí nhớ từ bộ phận này sang bộ

phận khác của não đòi hỏi phải thay đổi độ mạnh liên kết giữa các nơ-ron, phụ thuộc vào thời điểm phát sáng

chính xác của tế bào não.

Casimir Wierzynski - nghiên cứu sinh tại Caltech về hệ thống thần kinh và điện toán kiêm tác giả của nghiên cứu

- cho biết: "Chúng ta biết rằng nếu nơ-ron A tại mã ngư phát sáng ngay trước khi nơ-ron B tại tân vỏ não, và nếu

có sự liên kết giữa A và B thì liên kết đó sẽ được tăng cường. Do vậy chúng tôi muốn hiểu được mối quan hệ về

thời gian giữa các nơ-ron trong mã ngư và vỏ não trên trán - hay chính là phần trước của tân vỏ não".

Nhóm nghiên cứu do Athanassios Siapas - học giả tại Caltech, khoa Sinh học kiêm phó giáo sư ngành thần kinh

và điện toán - chỉ đạo đã sử dụng kỹ thuật điện toán và thu công nghệ cao để lắng nghe sự phát sáng của các

nơ-ron trong não chuột. Kỹ thuật này giúp họ xác định các cặp nơ-ron có mối liên hệ đồng bọ mà họ cần: đó là

mối liên hệ mà sự phát sáng của một nơ-ron trong mã ngư xảy ra trước chỉ vài phần nghìn giây so với sự phát

sáng của một nơ-ron khác ở vỏ não vùng trán.

Wierzynski thêm rằng: "Đây chính xác là kiểu quan hệ cần thiết để bộ phận mã ngư thực hiện các thay đổi trong

tân vỏ não - ví dụ như củng cố hay lưu trữ trí nhớ".

Một khi mối liên hệ giữa nơ-ron mã ngư và vỏ não trán được thiết lập, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng các kỹ thuật

"nghe trộm" công nghệ cao để lắng nghe những gì đang diễn ra trong não của những chú chuột thí nghiệm đang

ngủ, do giấc ngủ từ lâu đã được cho là khoảng thời gian tốt nhất để củng cố trí nhớ.

Kết quả là suy nghĩ của họ là đúng, nhưng chỉ cần đến một nửa khoảng thời gian.

Nhóm nghiên cứu quả thực có nghe được "sự bùng nổ" âm thanh của các nơ-ron trong quá trình ngủ, nhưng chỉ

trong một pha của giấc ngủ được gọi là pha sóng ngắn (SWS) khi mà giấc ngủ sâu diễn ra, không hề có giấc

mơ. Wierzynski cho biết: "Hóa ra trong pha sóng ngắn, có các giai đoạn khi mà rất nhiều tế bào trong vùng mã

ngư gần như đồng loạt phát sáng". Đáp lại, một số tế bào ở vùng vỏ não trước cũng phát sáng chỉ sau có vài

phần nghìn giây. "Điều thú vị là thời điểm chính xác xảy ra trong thời gian bùng nổ này, chứ không phải ngoài

khoảng thời gian đó". Mặt khác, trong pha chuyển động mắt nhanh (REM) các cặp nơ-ron trước đó vẫn phát

sáng cùng tốc độ như nhau nhưng không còn hòa hợp với nhau nữa. Wierzynski nói: "Thật ngạc nhiên khi nhận

thấy mối quan hệ về thời gian hầu như không hề có trong giai đoạn REM".

Do pha ngủ REM là pha trong đó giấc mơ hình thành, các nhà khoa học suy luận rằng sự thiếu vắng của "cuộc

trò chuyện" củng cố trí nhớ giữa các nơ-ron có lẽ đã giúp giải thích tại sao chúng ta khó nhớ được giấc mơ.

Do quan điểm này gây tò mò, các nhà nghiên cứu cảnh báo rằng những phát hiện nói trên chỉ làm tăng cơ hội,

cung cấp các con đường nghiên cứu mới trong tương lai.

Siapas cho biết: "Hiện chúng tôi đã chứng minh được có tồn tại mối liên hệ này, chúng tôi xây dựng khuôn khổ

sử dụng cho nghiên cứu về sau. Đây là một bước tiến gần hơn đến mục tiêu hiểu cặn kẽ về mối quan hệ giữa

giấc ngủ và trí nhớ vào một ngày nào đó".

Các đồng tác giả khác của nghiên cứu bao gồm Evgueniy Lubenov - học giả hậu tiến sĩ ngành sinh học tại

Caltech - và nghiên cứu sinh Ming Gu tại Caltech.

Nghiên cứu nhận được sự hỗ trợ từ Hội ái hữu sinh viên kỹ thuật và Khoa học phòng vệ quốc gia, Trung tâm

Công nghệ và Khoa học thông tin Caltech Thiết kế mạch sinh học, Quỹ James S. McDonnell, Quỹ Bren, Quỹ

McKnight, Quỹ Whitehall và Viện sức khỏe quốc gia.

>>KBZ 25:
Nhiều người bị ám ảnh bởi ma và sinh vật lạ
Một cuộc thăm dò dư luận tại Mỹ cho thấy, số người tin có ma và người ngoài hành tinh nhiều hơn số người tin

vào sự tồn tại của thánh thần.

Một công ty tiếp thị của Mỹ tiến hành cuộc thăm dò với 3.000 người trước khi phát động chiến dịch quảng cáo về

một bộ phim khoa học viễn tưởng. Những người tham gia được hỏi về quan điểm đối với thần thánh, sinh vật

ngoài hành tinh và ma.

58% số người tham gia nói họ tin vào sự tồn tại của sinh vật ngoài trái đất và ma, trong khi 54% thừa nhận rằng

họ tin Chúa thực sự tồn tại. Tỷ lệ phụ nữ tin vào thế giới siêu nhiên cao hơn so với nam giới và họ cũng tham gia

các hoạt động tín ngưỡng nhiều hơn.

Nhiều nhà khoa học cho rằng con người có xu hướng tin vào những hiện tượng mà họ không thể nhìn thấy hay

giải thích. Một cuộc khảo sát tại các đại học Mỹ năm 2006 cho thấy, 23% sinh viên năm thứ nhất tin vào thế giới

thần bí như xem tử vi và nói chuyện với người chết. Tỷ lệ này ở sinh viên năm thứ hai trở lên và sinh viên đã tốt

nghiệp là 31%.

Một số chuyên gia tâm lý và xã hội học nhận định chúng ta thừa hưởng niềm tin vào thế lực siêu nhiên từ tổ tiên.

Christopher Bader, nhà xã hội học Đại học Baylor (Mỹ) nhận xét: "Niềm tin vào hiện tượng thần bí tồn tại trong

tiềm thức của một cá nhân ngay từ khi chào đời. Trải qua thời gian, niềm tin ấy không mất đi mà chỉ thay đổi về

nội dung. Chẳng hạn, ngày nay ít người tin vào thần tiên nhưng số người tin vào sự tồn tại của đĩa bay lại tăng

lên".

Tôn giáo và niềm tin vào hiện tượng siêu nhiên không hề có mối quan hệ khăng khít. Hàng chục cuộc thăm dò ý

kiến cho thấy một thực tế hoàn toàn trái ngược. "Niềm tin vào hiện tượng siêu nhiên càng tăng thì niềm tin vào

Chúa trời và thánh thần càng giảm. Những tín đồ sùng đạo hiếm khi tin vào sự tồn tại của sinh vật ngoài vũ trụ

hoặc ma", Rod Stark, nhà tâm lý của Đại học Baylor, khẳng định.


>>KBZ 26:
Nổi nóng giúp thăng tiến nhanh hơn
Nhiều người cho rằng không nên biểu lộ sự giận dữ tại nơi làm việc, nhưng các nhà khoa học khẳng định cơn

thịnh nộ có kiểm soát giúp chúng ta chinh phục những vị trí cao hơn trong nghề nghiệp.

Các nhà khoa học của Đại học Y khoa Harvard (Mỹ) theo dõi 824 người trong hơn 44 năm để tìm hiểu vai trò của

các dạng cảm xúc đối với khả năng thành đạt trong công việc. Nhóm nghiên cứu nhận thấy những người dễ nổi

nóng có khả năng thăng tiến cao gấp 3 lần so với những người còn lại.

Nhóm nghiên cứu cho rằng những người quyết đoán và hiểu biết thường dễ nổi nóng khi bảo vệ quan điểm của

họ, nhưng luôn tỏ ra tôn trọng người không cùng quan điểm. Họ quan tâm tới lợi ích chung nên luôn biết cách

dung hòa quyền lợi của các cá nhân đối lập trong một nhóm. Do đó họ thường nhận được sự tôn trọng của tập

thể và dễ được đề bạt lên chức vụ cao hơn.

Tuy nhiên, sự giận dữ không kiểm soát có thể mang đến nhiều điều không tốt. Mọi người đều từng nổi nóng ít

nhất một lần trong đời, song chỉ có một bộ phận trong chúng ta biết cách thể hiện sự thịnh nộ "có kiểm soát".

Theo giáo sư George Vaillant, trưởng nhóm nghiên cứu, những người đó luôn được hưởng nhiều lợi ích về tinh

thần và công việc.

"Mọi người luôn nghĩ giận dữ là một dạng cảm xúc cực kỳ nguy hiểm. Nhưng chúng tôi nhận thấy rằng, trong

nhiều trường hợp, cơn giận có thể mang đến lợi ích", giáo sư George Vaillant nói thêm. Ông cũng cho rằng sợ

hãi và giận dữ là những cảm xúc tiêu cực mang tính bẩm sinh, nhưng chúng rất quan trọng đối với sự sinh tồn

của con người.

Một số thử nghiệm trước đây cho thấy các cảm xúc tiêu cực buộc người nguyên thủy phải tập trung sự chú ý

vào một số cây thay vì cả khu rừng, nhờ đó mà họ phát hiện thức ăn và kẻ thù dễ dàng hơn. "Nếu có thể rèn

luyện các kỹ năng kiềm chế cảm xúc nói chung và cơn tức giận nói riêng, chúng ta có thể sử dụng chúng để đạt

được nhiều điều to tát", người đứng đầu nhóm ngiên cứu kết luận.
Nổi nóng giúp thăng tiến nhanh hơn

>>KBZ 27:
Lạc quan hay bi quan đều do gene
Nếu bạn luôn cảm thấy cuộc sống hàng ngày chỉ là một chuỗi bất hạnh và chẳng có gì đáng để hy vọng, có thể

bố và mẹ bạn là nguyên nhân vì đã truyền sang một loại gene quyết định điều này.

Giáo sư tâm lý Elaine Fox của Đại học Essex (Anh cho biết: "Chúng tôi vừa tìm ra bằng chứng cho thấy một biến

đổi gene khiến con người có xu hướng nhìn vào khía cạnh tích cực của cuộc sống". Ông và cộng sự mời 97

người tham gia một thử nghiệm và phân tích gene của họ để tìm 5-HTTLPR, loại gene quy định nồng độ

serotonin có liên quan đến cảm xúc tích cực.

Kết quả cho thấy phần lớn có hai phiên bản gene 5-HTTLPR ngắn hoặc một phiên bản ngắn và một phiên bản

dài. Nhưng có 16 người chỉ sở hữu phiên bản dài.

Nhóm nghiên cứu chụp ảnh những vật được cho là mang đến tâm trạng tích cực (như chocolate, hoa hồng), tiêu

cực (như con nhện độc, sa mạc) và trung tính (tờ báo, cái bút). Các bức ảnh được xếp thành từng cặp, trong đó

mỗi cặp có một ảnh tích cực hoặc ảnh tiêu cực kèm với ảnh trung tính. Elaine yêu cầu tình nguyện viên xem các

cặp ảnh và lựa chọn những ảnh mà họ thích. Bà nhận thấy 16 người có hai phiên bản dài đều chọn những ảnh

tích cực và tránh ảnh tiêu cực, trong khi những người còn lại chọn ảnh tiêu cực hoặc trung tính.

Nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng tinh thần lạc quan giúp tăng cường sức khỏe, còn những người bi quan

hay gặp các vấn đề sức khỏe, từ đau đầu kinh niên, rối loạn tâm thần, đau tim cho tới đột quỵ. Nhưng theo giáo

sư Elaine, mặc dù gene có vai trò quan trọng, hoàn cảnh sống của mỗi người cũng có ảnh hưởng lớn đối với sự

hình thành tính cách.

"Bạn không thể trở thành người lạc quan nếu phải sống cùng những người bi quan. Ngược lại, chúng ta có thể

biến thành người lạc quan nhờ một công thức đơn giản: tránh tiếp xúc với người hay than thân trách phận, chỉ

trò chuyện với những người luôn nỗ lực trong cuộc sống và nghĩ tới ít nhất 3 điều tích cực mỗi ngày".

Gene và lối sống cũng có vai trò nhất định đối với sự hình thành bệnh tật. Tuy nhiên, người lạc quan có xu hướng

nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ, trong khi người bi quan thường bỏ qua. Tinh thần lạc quan cũng giúp chúng ta

giảm căng thẳng, nhờ đó mà hệ miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn. Phát hiện trên của nhóm giáo sư Elaine Fox

cũng giúp chúng ta giải thích tại sao một số người luôn nhìn mọi thứ với tâm trạng lạc quan, ngay cả trong những

tình huống tồi tệ nhất.


>>KBZ 28:
Nếu bạn hung hãn, chó của bạn cũng vậy
Trong một cuộc khảo sát đối với những người sở hữu chó của Đại học Pennsylavani, những người sử dụng

những biện pháp chống đối để huấn luyện vật nuôi hung hãn, các nhà nghiên cứu thú y đã phát hiện rằng hầu hết

những con vật này sẽ tiếp tục trở nên hung hãn trừ khi phương pháp huấn luyện được thay đổi.

Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí Applied Animal Behavior Science, cũng cho thấy rằng sử dụng những

biện pháp huấn luyện nhẹ nhàng hơn ví dụ như rèn luyện hoặc thưởng tạo ra rất ít phản ứng hung hãn.

Meghan E. Herron, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết: "Trên phạm vi quốc gia, lý do hàng đầu tại sao những

người sở hữu chó đưa vật nuôi của mình đến nhà thú ý đó là để kiểm soát hành vi hung hãn của chúng. Nghiên

cứu của chúng tôi chứng minh rằng những phương pháp huấn luyện theo kiểu đối đầu, như trừng mắt, đánh đập

hoặc dọa nạt không thể thay đổi những tập tính không phù hợp và có thể tạo ra những phản ứng hung hãn".

Nhóm nghiên cứu từ Trường thú y tại Penn nhận định rằng những nhà chăm sóc thú y cần khuyên những người

chủ về nguy cơ liên quan đến những phương pháp huấn luyện như vậy cũng như cung cấp những nguồn hướng

dẫn về kiểm soát những vấn đề về hành vi. Herron, Frances S. Shofer và Ilana R. Reisner, những bác sĩ thú ý

cùng Khoa nghiên cứu Y tế tại Penn Vet, đã thực hiện khảo sát với 30 mục đối với những người sở hữu chó.

Trong bảng câu hỏi, những người sở hữu chó được hỏi về cách họ xử lý những hành vi hung hãn, liệu có tác

động tích cực, tiêu cực, hay trung lập đối với hành vi của chó và liệu những phàn ứng hung hãn có phải là kết

quả từ những phương pháp họ sử dụng hay không. Họ cũng được hỏi từ đâu họ học phương pháp huấn luyện

vật nuôi đó.

Trong 140 bản khảo sát được hoàn thành, nguồn được nhắc đến nhiều nhất là "bản thân" và "người huấn luyện".

Một số biện pháp đối đầu như "đánh và đá chó vì hành vi không mong muốn" (43%), "chửi mắng" (41%), "ép

buộc chó nhả vật gì đó ra" (39%), "đẩy chó lăn sấp lưng và giữ chặt" (31%), "trừng mắt" (30%), ép buộc chó nằm

xuống (29%), và "tóm quai hàm và lắc" (26%) tạo ra phản ứng hung hãn từ ít nhất 25% những vật nuôi bị đối xử

như vậy. Thêm vào đó, những con chó được đưa vào bệnh viện vì hành vi hũng hãn đối với người quen thường

có xu hướng phản ứng hung hãn đối với một số phương pháp đối đầu hơn những con chó được đưa vào bệnh

viện vì những vấn đề hành vi khác.

Herron cho biết: "Nghiên cứu này nhấn mạnh nguy cơ của việc huấn luyện dựa trên sự thao túng, phổ biến trên

tivi, sách báo và các những người huấn luyện. Những kỹ năng này thường tạo ra cảm giác sợ hãi và dẫn đến

hung hãn đối với người quen thuộc".

Trước khi tư vấn những bác sĩ thú ý, rất nhiều người sở hữu chó thử những biện pháp biến đổi hành vi từ nhiều

nguồn đề xuất. Những đề xuất này thường bao gồm phương pháp huấn luyện ép buộc, tất cả những phương

pháp này đều có thể khiêu khích những hành vi hung hãn do sợ hãi hoặc để tự vệ. Việc sử dụng những phương

pháp này rộng rãi có thể xuất phát từ suy nghĩ rằng sự hũng hãn của vật nuôi khởi nguồn từ việc thiếu quyết liệt

của chủ.

Mục đích của nghiên cứu của Penn Vet là đánh giá tác động hành vi và những nguy cơ an toàn của những

phương pháp thường được chủ sử dụng đối với những vấn đề hành vi.

>>KBZ 29:
Hèn nhát hay dũng cảm đều do hoóc môn
Các nhà khoa học tin rằng một số người sinh ra để trở thành anh hùng, bởi cơ thể họ có ít hoóc môn gây cảm

giác căng thẳng hơn đa số chúng ta.

"Rõ ràng là có những cá nhân luôn bình tĩnh trong các tình huống căng thẳng hay chết chóc. Hàm lượng các

hoóc môn gây căng thẳng trong cơ thể họ thấp hơn nhiều so với phần đông chúng ta", Deane Aikins, tiến sĩ tâm

lý Đại học Yale (Mỹ), nhận xét.

Deane và cộng sự mời nhóm binh sĩ vừa trải qua đợt huấn luyện các kỹ năng sống sót trong môi trường giả lập

tham gia một nghiên cứu. Những binh sĩ này phải đối mặt với nhiều hoàn cảnh đáng sợ, như chiến tranh và nhà

tù. Nhóm nghiên cứu liệt kê những người xuất sắc nhất dựa vào kết quả huấn luyện của họ rồi lấy mẫu máu của

tất cả tình nguyện viên để phân tích.

Kết quả cho thấy nồng độ cortisol - còn được gọi là hoóc môn gây căng thẳng - ở nhóm binh sĩ xuất sắc nhất

thấp hơn nhiều so với những người còn lại. Trong khi đó, hàm lượng neuropeptide Y - một hợp chất có khả

năng làm giảm mức độ phản ứng của cơ thể đối với cảm giác căng thẳng - trong cơ thể nhóm xuất sắc lại cao

hơn. Trên thực tế, neuropeptide Y làm mất tác dụng của cortisol.

Phát biểu trong cuộc hội thảo thường niên của Hiệp hội Tiến bộ khoa học Mỹ, tiến sĩ Deane khẳng định rằng phát

hiện của ông giúp giải thích tại sao phi công Chesley Sullenberger có thể duy trì tâm trạng bình tĩnh để điều khiển

chiếc máy bay chở khách đáp xuống sông Hudson tại New York sau khi nó đâm trúng chim vào tháng trước.

Deane nhận định rằng nếu kiểm tra nồng độ cortisol và neuropeptide Y của một cá nhân, chúng ta có thể dự

đoán người đó có thể giữ bình tĩnh khi đối mặt với tình huống căng thẳng hay không. Các quan chức quân đội rất

quan tâm tới nghiên cứu của Deane vì nó có thể giúp họ tạo ra những người lính dũng cảm.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, bằng cách phối hợp một số hóa chất trong cơ thể với các biện pháp tập luyện thần

kinh, họ có thể biến một kẻ hèn nhát thành anh hùng. Một trong những hóa chất giúp khống chế cảm giác sợ hãi

là dehydroepiandrosterone (DHEA) - loại hoóc môn do các tuyến thượng thận ở cả nam và nữ tiết ra.

"Khi tuyển tân binh, Bộ Quốc phòng không thể loại bất kỳ ai nếu họ đáp ứng được các tiêu chuẩn về sức khỏe và

thể chất. Vì thế vấn đề nằm ở chỗ chúng ta phải tìm ra cách biến những anh chàng nhút nhát thành những chiến

binh gan dạ trên sa trường. Giờ đây quân đội đã có một giải pháp để làm việc đó", Deane phát biểu.
Admin
Admin
Founder
Founder

Tham gia : 17/08/2009
Bài viết : 763


https://haihaua.forummotion.com/

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết