37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus
2 posters
Trang 1 trong tổng số 1 trang
37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus
37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus
Số lượng các công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. Con số này nói lên mức độ hội nhập với trình độ quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam.
Đó là một trong những kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu thực hiện Đề tài mã số KHGD/16-20.ĐT.032 thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016-2020: “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam” đã thực hiện khảo sát ở hơn 40 trường đại học trong cả nước.
Nhóm nghiên cứu do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội làm trưởng nhóm.
58,8% giảng viên tham gia nhóm nghiên cứu
Theo kết quả khảo sát của nhóm thực hiện đề tài với 216 giảng viên với
Chính sách về nhóm nghiên cứu (NNC)
Tại Quyết định 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trong nước và nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước trong đó một trong những mục tiêu là hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng 50 NNC (giai đoạn 2016-2020) và 80 NNC (giai đoạn 2021-2015) nhằm hình thành các NNCM đủ sức giải quyết những vấn đề KH&CN lớn của đất nước.
thành phần trong đó TS: 42,1%, TSKH: 2,3%, PGS: 9,7% và GS: 4,6% ở 40 trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn cả nước, với tỷ lệ 69% là nam, kết quả cho thấy có 58,8% (127/216) khẳng định đang tham gia các nhóm nghiên cứu (NNC).
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê, tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy - nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo, trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm giảng dạy - nghiên cứu nhất là: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (127 nhóm), tiếp đến là các trường: Đại học Tây Nguyên (42 nhóm), Đại học Đà Nẵng (36 nhóm), Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (30 nhóm), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (24 nhóm), Đại học Quốc gia Hà Nội (29 NNC mạnh). Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường đại học, hiện nay trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 NNC, một trường đại học có trung bình 7 NNC.
Các kết quả khảo sát cũng ghi nhận trong số ý kiến của 216 giảng viên, có 29,1% là các trưởng NNC, cho biết đã tham gia 64 NNC mới được thành lập trong vòng 5 năm từ 2013 trở lại đây.
Số NNC tăng mạnh trong năm 2017 với 17/64 nhóm. Điều này có thể lý giải bởi áp lực của yêu cầu về công bố quốc tế với độ ngũ giảng viên và NCS.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay, quy chế đào tạo tiến sỹ năm 2017 mới ban hành yêu cầu giảng viên hướng dẫn và NCS đều phải có công bố quốc tế là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự hình thành các NNC mới trong những năm gần đây.
Thông qua NNC, chất lượng đào tạo tiến sỹ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Các kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 77,78% các giảng viên tham gia các NNC đã có các công bố trên các tạp chí ISI/Scopus trong khi con số này đối với các giảng viên không thuộc các NNC chỉ là 48,31%,
23,02% giảng viên tham gia các NNC có các sản phẩm đạt giải thưởng KH&CN, 44,44% có sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh, có thể chuyển giao công nghệ và thương mại hóa. Đây là tỷ lệ khá cao nếu so với các giảng viên không tham gia các NNC (13,48% và 30,34%).
Biểu đồ so sánh một số tiêu chí giữa các giảng viên tham gia/không tham gia NNC.
Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2309 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm NC độc lập của ĐH Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó 2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài.
Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009-2018), số lượng các công bố quốc tế của Việt Nam đã tăng gần 5 lần, từ 1.764 bài năm 2009 đã tăng lên đến 8.234 bài năm 2018. Có thể nhận thấy, sự gia tăng của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng công bố quốc tế.
Tốc độ tăng công bố Scopus của Việt Nam giai đoạn 2009-2018. (Nguồn: Cơ sở dữ liệu Scopus, truy cập ngày 7/1/2019)
Các thống kê từ nguồn dữ liệu của ISI và Scopus cho thấy một số trường đại học như: ĐHQG Hà Nội, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Duy Tân … là những đơn vị đào tạo – nghiên cứu có số lượng công bố quốc tế và tổng số trích dẫn của các bài báo quốc tế đứng top đầu tại Việt Nam.
Cũng theo kết quả khảo sát cho thấy, lĩnh vực nghiên cứu của các NNC cũng không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn tập trung nhiều nhất vào 3 lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn.
Biểu đồ phân bố lĩnh vực nghiên cứu của các NNC.
Các trường đại học chưa quyết liệt để đầu tư cho các NNC
Qua khảo sát về thực trạng phát triển, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, bên cạnh những mặt đạt được của nhóm NNC trong thời gian qua thì vẫn còn một số tồn tại và hạn chế:
Thứ nhất, thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC. Kết quả khảo sát mới cho thấy trong số các cán bộ được hỏi mới có 75% các NNC là do các GS, PGS dẫn dắt. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát đánh cho thấy 96% cho rằng vai trò dẫn dắt của người trưởng nhóm rất quan trọng, 97,6% cho rằng bên cạnh người trưởng nhóm, chất lượng các thành viên tham gia NNC cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Thứ hai, số lượng các công bố quốc tế của các NNC còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% số thầy cô được hỏi chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. Con số này nói lên mức độ hội nhập với trình độ quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam.
Thứ ba, nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế, có đến 93,7% số người được hỏi cho rằng kinh phí để đầu tư cho NNC có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Ví dụ, Đại học Quốc gia Hà Nội sau 5 năm ban hành chính sách về NNCM từ 2013 đến nay, các đơn vị thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội như Trường Đại học Công nghệ mới hỗ trợ mỗi NNCM 50 triệu/năm; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hỗ trợ mỗi NNCM 30 triệu/năm, một số trường chưa có chính sách cụ thể...
Ngoài ra, cơ sở vật chất, trang thiết bị đầu tư cho nghiên cứu trong các trường đại học hiện nay còn rất thiếu hoặc không đồng bộ.
Thứ tư, về phía quản lý nhà nước và các trường đại học, còn thiếu các chính sách cụ thể và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành và phát triển các NNC trong các trường đại học.
Nguyên nhân chính của những hạn chế tồn tại nêu trên trước hết xuất phát từ chủ quan các cán bộ giảng viên còn chưa ý thức được đầy đủ việc gắn kết công tác đào tạo với nghiên cứu, và chưa ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn thông qua NNC.
Chính sách hỗ trợ, khuyến khích của các trường đại học cho các NNC chưa có, chưa cụ thể, hoặc còn chưa đáng kể, hay nói cách khác là chính các trường đại học cũng chưa có những giải pháp quyết liệt để đầu tư cho các NNC.
Có đến 16,7% các cán bộ giảng viên được hỏi trả lời chưa từng tham gia hội nghị quốc tế nào (được tổ chức ở trong cũng như ngoài nước).
“Chúng ta có thể nắm bắt được những cơ hội của của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, không chỉ cần nguồn nhân lực chất lượng cao mà cần có nhân tài. Lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về những cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thu hút được nhân tài.
Chính vì vậy, các NNC cũng không là ngoại lệ và vấn đề thu hút nhân tài cũng là thách thức lớn đặt ra với các NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay” – GS Đức nhấn mạnh.
Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy các NNC
Nhóm nghiên cứu (NNC) được coi là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, then chốt trong việc nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và chất lượng đào tạo của nhà trường.
Qua khảo sát thực tiễn hoạt động của các nhóm nghiên cứu, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước và các trường đại học nhà nước cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các NNC trong các trường đại học hiện nay.
Các NNC cũng có quy mô, trình độ và thành tích đào tạo, nghiên cứu khác nhau, khả năng kết nối, hợp tác trong ngoài nước rất khác nhau, do vậy khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất.
Hồng Hạnh
https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/375-giang-vien-chua-co-cong-bo-quoc-te-isi-scopus-20190429101803332.htm
Số lượng các công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. Con số này nói lên mức độ hội nhập với trình độ quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam.
Đó là một trong những kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu thực hiện Đề tài mã số KHGD/16-20.ĐT.032 thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016-2020: “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam” đã thực hiện khảo sát ở hơn 40 trường đại học trong cả nước.
Nhóm nghiên cứu do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội làm trưởng nhóm.
58,8% giảng viên tham gia nhóm nghiên cứu
Theo kết quả khảo sát của nhóm thực hiện đề tài với 216 giảng viên với
Chính sách về nhóm nghiên cứu (NNC)
Tại Quyết định 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trong nước và nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước trong đó một trong những mục tiêu là hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng 50 NNC (giai đoạn 2016-2020) và 80 NNC (giai đoạn 2021-2015) nhằm hình thành các NNCM đủ sức giải quyết những vấn đề KH&CN lớn của đất nước.
thành phần trong đó TS: 42,1%, TSKH: 2,3%, PGS: 9,7% và GS: 4,6% ở 40 trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn cả nước, với tỷ lệ 69% là nam, kết quả cho thấy có 58,8% (127/216) khẳng định đang tham gia các nhóm nghiên cứu (NNC).
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê, tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy - nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo, trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm giảng dạy - nghiên cứu nhất là: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (127 nhóm), tiếp đến là các trường: Đại học Tây Nguyên (42 nhóm), Đại học Đà Nẵng (36 nhóm), Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (30 nhóm), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (24 nhóm), Đại học Quốc gia Hà Nội (29 NNC mạnh). Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường đại học, hiện nay trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 NNC, một trường đại học có trung bình 7 NNC.
Các kết quả khảo sát cũng ghi nhận trong số ý kiến của 216 giảng viên, có 29,1% là các trưởng NNC, cho biết đã tham gia 64 NNC mới được thành lập trong vòng 5 năm từ 2013 trở lại đây.
Số NNC tăng mạnh trong năm 2017 với 17/64 nhóm. Điều này có thể lý giải bởi áp lực của yêu cầu về công bố quốc tế với độ ngũ giảng viên và NCS.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay, quy chế đào tạo tiến sỹ năm 2017 mới ban hành yêu cầu giảng viên hướng dẫn và NCS đều phải có công bố quốc tế là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự hình thành các NNC mới trong những năm gần đây.
Thông qua NNC, chất lượng đào tạo tiến sỹ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Các kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 77,78% các giảng viên tham gia các NNC đã có các công bố trên các tạp chí ISI/Scopus trong khi con số này đối với các giảng viên không thuộc các NNC chỉ là 48,31%,
23,02% giảng viên tham gia các NNC có các sản phẩm đạt giải thưởng KH&CN, 44,44% có sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh, có thể chuyển giao công nghệ và thương mại hóa. Đây là tỷ lệ khá cao nếu so với các giảng viên không tham gia các NNC (13,48% và 30,34%).
Biểu đồ so sánh một số tiêu chí giữa các giảng viên tham gia/không tham gia NNC.
Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2309 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm NC độc lập của ĐH Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó 2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài.
Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009-2018), số lượng các công bố quốc tế của Việt Nam đã tăng gần 5 lần, từ 1.764 bài năm 2009 đã tăng lên đến 8.234 bài năm 2018. Có thể nhận thấy, sự gia tăng của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng công bố quốc tế.
Tốc độ tăng công bố Scopus của Việt Nam giai đoạn 2009-2018. (Nguồn: Cơ sở dữ liệu Scopus, truy cập ngày 7/1/2019)
Các thống kê từ nguồn dữ liệu của ISI và Scopus cho thấy một số trường đại học như: ĐHQG Hà Nội, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Duy Tân … là những đơn vị đào tạo – nghiên cứu có số lượng công bố quốc tế và tổng số trích dẫn của các bài báo quốc tế đứng top đầu tại Việt Nam.
Cũng theo kết quả khảo sát cho thấy, lĩnh vực nghiên cứu của các NNC cũng không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn tập trung nhiều nhất vào 3 lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn.
Biểu đồ phân bố lĩnh vực nghiên cứu của các NNC.
Các trường đại học chưa quyết liệt để đầu tư cho các NNC
Qua khảo sát về thực trạng phát triển, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, bên cạnh những mặt đạt được của nhóm NNC trong thời gian qua thì vẫn còn một số tồn tại và hạn chế:
Thứ nhất, thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC. Kết quả khảo sát mới cho thấy trong số các cán bộ được hỏi mới có 75% các NNC là do các GS, PGS dẫn dắt. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát đánh cho thấy 96% cho rằng vai trò dẫn dắt của người trưởng nhóm rất quan trọng, 97,6% cho rằng bên cạnh người trưởng nhóm, chất lượng các thành viên tham gia NNC cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Thứ hai, số lượng các công bố quốc tế của các NNC còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% số thầy cô được hỏi chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. Con số này nói lên mức độ hội nhập với trình độ quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam.
Thứ ba, nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế, có đến 93,7% số người được hỏi cho rằng kinh phí để đầu tư cho NNC có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Ví dụ, Đại học Quốc gia Hà Nội sau 5 năm ban hành chính sách về NNCM từ 2013 đến nay, các đơn vị thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội như Trường Đại học Công nghệ mới hỗ trợ mỗi NNCM 50 triệu/năm; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hỗ trợ mỗi NNCM 30 triệu/năm, một số trường chưa có chính sách cụ thể...
Ngoài ra, cơ sở vật chất, trang thiết bị đầu tư cho nghiên cứu trong các trường đại học hiện nay còn rất thiếu hoặc không đồng bộ.
Thứ tư, về phía quản lý nhà nước và các trường đại học, còn thiếu các chính sách cụ thể và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành và phát triển các NNC trong các trường đại học.
Nguyên nhân chính của những hạn chế tồn tại nêu trên trước hết xuất phát từ chủ quan các cán bộ giảng viên còn chưa ý thức được đầy đủ việc gắn kết công tác đào tạo với nghiên cứu, và chưa ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn thông qua NNC.
Chính sách hỗ trợ, khuyến khích của các trường đại học cho các NNC chưa có, chưa cụ thể, hoặc còn chưa đáng kể, hay nói cách khác là chính các trường đại học cũng chưa có những giải pháp quyết liệt để đầu tư cho các NNC.
Có đến 16,7% các cán bộ giảng viên được hỏi trả lời chưa từng tham gia hội nghị quốc tế nào (được tổ chức ở trong cũng như ngoài nước).
“Chúng ta có thể nắm bắt được những cơ hội của của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, không chỉ cần nguồn nhân lực chất lượng cao mà cần có nhân tài. Lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về những cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thu hút được nhân tài.
Chính vì vậy, các NNC cũng không là ngoại lệ và vấn đề thu hút nhân tài cũng là thách thức lớn đặt ra với các NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay” – GS Đức nhấn mạnh.
Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy các NNC
Nhóm nghiên cứu (NNC) được coi là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, then chốt trong việc nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và chất lượng đào tạo của nhà trường.
Qua khảo sát thực tiễn hoạt động của các nhóm nghiên cứu, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước và các trường đại học nhà nước cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các NNC trong các trường đại học hiện nay.
Các NNC cũng có quy mô, trình độ và thành tích đào tạo, nghiên cứu khác nhau, khả năng kết nối, hợp tác trong ngoài nước rất khác nhau, do vậy khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất.
Hồng Hạnh
https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/375-giang-vien-chua-co-cong-bo-quoc-te-isi-scopus-20190429101803332.htm
chauhuyen- Mem cấp 6
- Tham gia : 12/02/2016
Bài viết : 1661
Re: 37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus
[size=32]Ra mắt phim lịch sử: Những cánh én đầu tiên[/size]
(NLĐO)- "Những cánh én đầu tiên" đã được ra mắt công chúng sau 5 năm ấp ủ và thực hiện. Bộ phim tái hiện được trận chiến trên Hàm Rồng ngày 4-4-1965 giữa lực lượng không quân nhân dân Việt Nam với lực lượng không quân hải quân Mỹ
Tối 26-4, xưởng phim Silver Swallows Studio (Trường Đại học Duy Tân) đã tổ chức buổi họp báo ra mắt tập phim đầu tiên trong series "Không chiến Việt Nam" với tựa đề "Những cánh én đầu tiên".
Phim tài liệu "Những cánh én đầu tiên" thuộc series "Không chiến Việt Nam" – một trong những dự án nhân văn, phi lợi nhuận của xưởng phim Én Bạc (Silver Swallows Studio) của Trường Đại học Duy Tân. Bộ phim ra đời với khát vọng có thể tái hiện được trận chiến trên Hàm Rồng ngày 4-4-1965 giữa lực lượng không quân nhân dân Việt Nam với lực lượng không quân Hải quân Mỹ. Silver Swallows Studio đã rất nỗ lực trong việc chắt lọc sự kiện và theo sát từng khung hình để có thể khiến người xem cảm nhận được chân thực nhất thời khắc oanh liệt của những người anh hùng trong trận Hàm Rồng.
Đạo diễn Lê Nguyên Bảo trả lời buổi họp báo
Tại buổi họp báo, đạo diễn Lê Nguyên Bảo đã chia sẻ, cảm hứng làm bộ phim về chiến tranh không quân Việt Nam bắt nguồn từ lòng tự tôn dân tộc. Khi còn là *** sinh tại Mỹ, anh đã được xem những bộ phim tư liệu về những trận chiến trên không của không quân Mỹ được tái hiện bằng chất liệu 3D. Trong những thước phim đó anh chỉ thấy được hình ảnh máy bay Việt Nam bị địch bắn rơi như thế nào. Lòng tự tôn dân tộc được khơi dậy, cùng với đó là đam mê tìm hiểu về lịch sử, công nghệ, trang bị máy bay,… vị đạo diễn đã bắt đầu hành trình tìm những con người có năng lực từ mọi miền Tổ quốc để cùng thực hiện dự án này. Trên tinh thần đó. "Những cánh én đầu tiên" đã được ra mắt công chúng sau 5 năm ấp ủ và thực hiện. Điểm hấp dẫn của "những cánh én đầu tiên" đó là sự chân thực về mặt cốt truyện, nội dung logic, chặt chẽ và độc đáo về mặt thể hiện với sự kết hợp giữa phim tài liệu và minh họa điện ảnh.
Bộ phim thu hút giới trẻ
Theo đạo diễn Lê Nguyên Bảo, sự kết hợp này là bởi giới trẻ hiện nay hầu như không dành nhiều sự quan tâm đối với lịch sử vì nhiều lý do khác nhau. Trong đó phần lớn nằm ở cách thể hiện và tiếp cận chưa đủ sinh động để kích thích sự tò mò, tìm hiểu của giới trẻ. Chính vì thế, sự kết hợp giữa yếu tố lịch sử và điện ảnh một cách linh động và mềm dẻo sẽ tạo nên một chất liệu hoàn toàn khác, tạo nên sự hứng thú và lôi cuốn cho giới trẻ trong việc tìm hiểu lịch sử nước nhà. Ekip làm phim mong muốn góp phần bé nhỏ để điểm tô thêm trang sử hào hùng để giúp thế hệ hôm nay và ngày mai, mãi mãi một niềm tự hào, mãi mãi trân trọng những phút giây thiêng liêng của dân tộc.
Phi công Hồ Văn Quỳ xúc động khi xem bộ phim
Đặc biệt, họp báo còn có sự tham dự của ông Hồ Văn Quỳ (thành viên số 3 trong trận đánh ngày 30-4-1965), 60 phút phim giúp ông sống lại với những ký ức hào hùng của Hàm Rồng năm 1965, ông xúc động : "Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, dù ký ức không còn rõ nét vì tuổi già. Nhưng sau khi xem xong thước phim tái hiện lại trận chiến đầu tiên của không quân Việt Nam, tôi đã rất xúc động, nhớ về những người anh em đồng đội của mình đã chiến đấu anh dũng như thế nào". Ông gửi lời cám ơn sâu sắc đến Đại học Duy Tân và xưởng phim Én Bạc đã khơi gợi những ký ức hào hùng của dân tộc và lan tỏa lòng tự hào dân tộc đến với cộng đồng.
https://nld.com.vn/van-nghe/ra-mat-phim-lich-su-nhung-canh-en-dau-tien-20190427102548585.htm
(NLĐO)- "Những cánh én đầu tiên" đã được ra mắt công chúng sau 5 năm ấp ủ và thực hiện. Bộ phim tái hiện được trận chiến trên Hàm Rồng ngày 4-4-1965 giữa lực lượng không quân nhân dân Việt Nam với lực lượng không quân hải quân Mỹ
Tối 26-4, xưởng phim Silver Swallows Studio (Trường Đại học Duy Tân) đã tổ chức buổi họp báo ra mắt tập phim đầu tiên trong series "Không chiến Việt Nam" với tựa đề "Những cánh én đầu tiên".
Phim tài liệu "Những cánh én đầu tiên" thuộc series "Không chiến Việt Nam" – một trong những dự án nhân văn, phi lợi nhuận của xưởng phim Én Bạc (Silver Swallows Studio) của Trường Đại học Duy Tân. Bộ phim ra đời với khát vọng có thể tái hiện được trận chiến trên Hàm Rồng ngày 4-4-1965 giữa lực lượng không quân nhân dân Việt Nam với lực lượng không quân Hải quân Mỹ. Silver Swallows Studio đã rất nỗ lực trong việc chắt lọc sự kiện và theo sát từng khung hình để có thể khiến người xem cảm nhận được chân thực nhất thời khắc oanh liệt của những người anh hùng trong trận Hàm Rồng.
Đạo diễn Lê Nguyên Bảo trả lời buổi họp báo
Tại buổi họp báo, đạo diễn Lê Nguyên Bảo đã chia sẻ, cảm hứng làm bộ phim về chiến tranh không quân Việt Nam bắt nguồn từ lòng tự tôn dân tộc. Khi còn là *** sinh tại Mỹ, anh đã được xem những bộ phim tư liệu về những trận chiến trên không của không quân Mỹ được tái hiện bằng chất liệu 3D. Trong những thước phim đó anh chỉ thấy được hình ảnh máy bay Việt Nam bị địch bắn rơi như thế nào. Lòng tự tôn dân tộc được khơi dậy, cùng với đó là đam mê tìm hiểu về lịch sử, công nghệ, trang bị máy bay,… vị đạo diễn đã bắt đầu hành trình tìm những con người có năng lực từ mọi miền Tổ quốc để cùng thực hiện dự án này. Trên tinh thần đó. "Những cánh én đầu tiên" đã được ra mắt công chúng sau 5 năm ấp ủ và thực hiện. Điểm hấp dẫn của "những cánh én đầu tiên" đó là sự chân thực về mặt cốt truyện, nội dung logic, chặt chẽ và độc đáo về mặt thể hiện với sự kết hợp giữa phim tài liệu và minh họa điện ảnh.
Bộ phim thu hút giới trẻ
Theo đạo diễn Lê Nguyên Bảo, sự kết hợp này là bởi giới trẻ hiện nay hầu như không dành nhiều sự quan tâm đối với lịch sử vì nhiều lý do khác nhau. Trong đó phần lớn nằm ở cách thể hiện và tiếp cận chưa đủ sinh động để kích thích sự tò mò, tìm hiểu của giới trẻ. Chính vì thế, sự kết hợp giữa yếu tố lịch sử và điện ảnh một cách linh động và mềm dẻo sẽ tạo nên một chất liệu hoàn toàn khác, tạo nên sự hứng thú và lôi cuốn cho giới trẻ trong việc tìm hiểu lịch sử nước nhà. Ekip làm phim mong muốn góp phần bé nhỏ để điểm tô thêm trang sử hào hùng để giúp thế hệ hôm nay và ngày mai, mãi mãi một niềm tự hào, mãi mãi trân trọng những phút giây thiêng liêng của dân tộc.
Phi công Hồ Văn Quỳ xúc động khi xem bộ phim
Đặc biệt, họp báo còn có sự tham dự của ông Hồ Văn Quỳ (thành viên số 3 trong trận đánh ngày 30-4-1965), 60 phút phim giúp ông sống lại với những ký ức hào hùng của Hàm Rồng năm 1965, ông xúc động : "Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, dù ký ức không còn rõ nét vì tuổi già. Nhưng sau khi xem xong thước phim tái hiện lại trận chiến đầu tiên của không quân Việt Nam, tôi đã rất xúc động, nhớ về những người anh em đồng đội của mình đã chiến đấu anh dũng như thế nào". Ông gửi lời cám ơn sâu sắc đến Đại học Duy Tân và xưởng phim Én Bạc đã khơi gợi những ký ức hào hùng của dân tộc và lan tỏa lòng tự hào dân tộc đến với cộng đồng.
https://nld.com.vn/van-nghe/ra-mat-phim-lich-su-nhung-canh-en-dau-tien-20190427102548585.htm
tuanh- Mem cấp 6
- Tham gia : 14/02/2016
Bài viết : 1629
Similar topics
» Các trường đại học VN qua công bố quốc tế: Nhìn từ dữ liệu Scopus
» Sinh viên Chương trình Tiên tiến và Quốc tế ngành Công nghệ Thông tin Khoa Đào tạo Quốc tế Bảo vệ Thành công Đồ án Capstone
» bạn có muốn trở thành sinh viên Học Viện Công nghệ bưu chính viễn thông
» Giảng viên DTU nhận Giải thưởng Bài báo Xuất sắc tại Hội thảo Quốc tế về Quản lý Dữ liệu, Phân tích và Đổi mới
» Thành công ‘săn’ học bổng quốc tế, sinh viên Đại học Duy Tân qua Indonesia dự Trại hè
» Sinh viên Chương trình Tiên tiến và Quốc tế ngành Công nghệ Thông tin Khoa Đào tạo Quốc tế Bảo vệ Thành công Đồ án Capstone
» bạn có muốn trở thành sinh viên Học Viện Công nghệ bưu chính viễn thông
» Giảng viên DTU nhận Giải thưởng Bài báo Xuất sắc tại Hội thảo Quốc tế về Quản lý Dữ liệu, Phân tích và Đổi mới
» Thành công ‘săn’ học bổng quốc tế, sinh viên Đại học Duy Tân qua Indonesia dự Trại hè
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết