Hải Hậu A
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

2 posters

Go down

Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Empty Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Bài gửi by Hiepsi_Anhsang 03/01/11, 01:57 pm

Nhân dịp đầu năm mới 2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, có bài viết về Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 2011 - 2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011.

Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Thutuong1241110
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

1. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn 2001 -
2010, chúng ta đã tạo được những xung lực mới cho quá trình phát triển.
Mở rộng dân chủ trong kinh tế với việc ban hành và thực hiện luật doanh
nghiệp, phát triển mạnh kinh tế dân doanh, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; cải cách hành
chính mà khâu trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; tham gia sâu
rộng vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, gia nhập tổ chức thương
mại thế giới; nhờ đó, đã phát huy được tiềm năng và nội lực của đất
nước, tranh thủ được nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược 2001 - 2010,
mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực và tác động tiêu cực của
khủng hoảng toàn cầu, nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và
những biến động phức tạp của kinh tế thế giới, giành được những thành
tựu to lớn và rất quan trọng . Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2011 - 2020 đã trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về kết
quả đạt được cũng như những bất cập, yếu kém và rút ra những bài học sâu
sắc từ thực tiễn.


2. Chúng ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế
giới thay đổi nhanh và biến động rất khó lường. Các xu hướng nổi trội
là:


(1) Sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ; hình
thành nền kinh tế tri thức; sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu
năng lượng, thân thiện với môi trường; phát triển kinh tế xanh. Đây là
động lực chủ yếu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu thị trường toàn
cầu, thúc đẩy quá trình cải cách và tái cấu trúc kinh tế trong từng nước
cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước. Đón nhận quá
trình này một cách tự nhiên hoặc chủ động lựa chọn tuỳ thuộc vào năng
lực nội sinh và chính sách của mỗi nước.


(2) Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế ngày càng sâu rộng, thúc
đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động, hình thành
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt. Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ có
tính cạnh tranh cao trở thành thách thức kinh tế lớn nhất đối với nước
ta trong thập kỷ tới.


(3) Vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi, nhất là
sự phát triển mạnh mẽ cuả Ấn Độ và Trung Quốc làm thay đổi cán cân
quyền lực kinh tế - chính trị trên thế giới. Với vị thế địa chiến lư ợ c
trọng yếu, ASEAN hội nhập ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự phát
triển của các nước thành viên và khẳng định vai trò chủ đạo trong một
cấu trúc khu vực đang định hình. Tuy nhiên, khu vực này cũng là nơi tiềm
ẩn những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của nước
ta cũng như các nước trong khu vực.
Sau khủng hoảng, quá trình phục
hồi kinh tế thế giới diễn ra chậm chạp và đầy mâu thuẫn; khủng hoảng nợ
công lan rộng và nguy cơ của cuộc chiến tranh tiền tệ chưa phải đã được
loại trừ. Trong bối cảnh đó, sự điều chỉnh chính sách của các nước,
nhất là các nước lớn làm cho độ rủi ro và tính bất định tăng lên.


Song song đó, tình trạng suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu
nhất là nước biển dâng mà nước ta là một trong số ít nước chịu tác động
nặng nhất, có thể là biến số lớn trong tiến trình phát triển của đất
nước.


Chưa bao giờ bối cảnh quốc tế lại chi phối nhiều đến sự phát
triển của nước ta với tất cả những thách thức và cơ hội to lớn như vậy.
Chúng ta sẽ phải làm gì và ở vị thế nào trong sự vận động phức tạp này.


Dự thảo Chiến lược xác định các quan điểm làm căn cứ để lựa
chọn mục tiêu và đề ra các định hướng phát triển cho giai đoạn 2011 -
2020 phù hợp với tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, bảo đảm tính
thống nhất với mục tiêu dài hạn trong dự thảo Cương lĩnh.


II. Bước tiến mới về tư duy phát triển


1. Về các quan điểm phát triển


Quan điểm phát triển bền vững trong dự thảo Chiến lược lần này
mang một nội hàm mới, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nhanh
với phát triển bền vững, coi phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường; đặt yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng trưởng
nhanh, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, đồng thời khắc
phục tư tưởng chạy theo tốc độ mà không chú ý đúng mức đến chất lượng
tăng trưởng.


Trong tiến trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta bắt đầu từ đổi mới
kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn
lực của đất nước. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, khi đổi
mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã
có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này thể
hiện nhận thức đúng đắn của Đảng ta về bước đi và biện chứng phát triển
của tiến trình đổi mới. Dự thảo Chiến lược nêu “đổi mới đồng bộ, phù hợp
về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực
hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá
trình đổi mới và phát triển”. Trọng tâm của đổi mới chính trị là hoàn
thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn
với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy đảng;
mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò
chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân
dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.


Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa mà cạnh tranh
kinh tế diễn ra rất quyết liệt. Mỗi nước đều tìm cách khai thác tốt nhất
các lợi thế so sánh sẵn có, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh
tranh, đồng thời, tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới. Tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa kinh tế là những lợi thế so sánh sẵn có, tuy rất quan
trọng nhưng không phải là quyết định nhất. Thực tiễn đã khẳng định nguồn
lực con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định lợi thế cạnh
tranh dài hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện
khoa học công nghệ - sản phẩm trí tuệ của con người phát triển nhảy vọt
trong thời đại chúng ta. Hơn nữa, mục tiêu phát triển kinh tế xét đến
cùng là vì con người, cho con người. Con người phát triển toàn diện, có
đời sống vật chất ấm no, đời sống tinh thần phong phú, có năng lực trí
tuệ, phát huy mọi khả năng sáng tạo trong sự nhận thức được cái tất yếu
để có thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, vươn tới tự do. Dự thảo
Chiến lược nêu quan điểm “phát huy tối đa nhân tố con người; coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”;
nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi
khả năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội, tạo động
lực phát triển đất nước.


“Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học,
công nghệ ngày càng cao , đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, quan điểm này nhấn
mạnh yêu cầu mới, quan trọng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất phải dựa vào trình độ khoa học, công nghệ ngày càng
cao, phản ánh xu thế khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, còn quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm “phát triển nhanh hài hoà các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Tăng tiềm lực và nâng cao hiệu quả
của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng
vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết và định hướng nền kinh tế,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô . Phát triển kinh tế tập thể với nhiều
hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã...”.


Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước mà còn có
các nguồn lực khác do Nhà nước sở hữu gồm ngân sách nhà nước, đất đai,
tài nguyên, dự trữ quốc gia… Thông qua các chính sách phát triển và cơ
chế điều tiết, phân bổ hiệu quả, các nguồn lực này sẽ là nhân tố kích
hoạt, định hướng việc thực hiện chính sách cơ cấu và sự phát triển kinh
tế - xã hội nói chung. Vì vậy, khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo không chỉ nói riêng nguồn lực vật chất mà phải đặt nó trong sự tác
động của chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và
cũng không chỉ nói đến vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển
kinh tế mà phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói
chung. Điều đó cũng đòi hỏi phải nhận thức và định vị lại nội dung hoạt
động và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.


Cùng với việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, dự
thảo Chiến lược nhấn mạnh “ Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ
phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế,
thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế
chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế”.


Từ hội nhập kinh tế, các nước đang mở rộng hội nhập sang các
lĩnh vực khác như là một tiến trình khách quan. Để tích cực, chủ động và
nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập quốc tế, chúng ta phải “ Xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng”. Nhấn mạnh quan điểm này là hết sức cần
thiết trong bối cảnh hiện nay. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng
doanh nghiệp trong nước có mạnh, nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội
nhập mới cao. Càng hội nhập có hiệu quả, chúng ta càng có điều kiện
thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.


2. Về mục tiêu Chiến lược và các khâu đột phá


Dự thảo Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “ Phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát
triển cao hơn trong giai đoạn sau”.


Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các
mục tiêu cụ thể nêu trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế,
xã hội với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn
với yêu cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương lĩnh thứ hai của Đảng”
nhằm triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện Cương lĩnh.


Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải
tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột
phá - những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà
nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi
tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Dự thảo
lựa chọn ba đột phá:


Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải
cách hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một
cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung
của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các
yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị
trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm
chi phí, nâng cao năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi
của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn
được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành
chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Mặt khác,
kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hoà với
phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước
phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết
nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường.
Hai là, phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và
tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa
là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. Đặt yêu cầu gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ là một nội dung mới, thể hiện tính hướng đích của phát triển nguồn
nhân lực. Chỉ với nguồn nhân lực có khả năng phát triển và ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất và quản lý mới tạo ra năng suất cao để phát
triển nhanh và bền vững.


Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số
công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị
lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển
và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất
nước. Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng đang là cản trở lớn đến sự phát
triển kinh tế - xã hội, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, không
phát huy được tác động hội tụ và lan tỏa của các yếu tố nội sinh, không
khai thác được vị trí địa kinh tế nằm trong chuỗi cung toàn cầu của nước
ta và là nguy cơ làm gia tăng chênh lệch về mức sống giữa các vùng của
đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực
hiện khâu đột phá này.


3. Về các định hướng phát triển


Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự
thảo Chiến lược đề ra 12 định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống
đồng bộ các giải pháp lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể của phát triển bền
vững; bảo đảm gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số
nội dung mới.


Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường là những tư tưởng quan trọng nhất cũng là những nét
mới trong tư duy phát triển.


Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có
khủng hoảng. Quá trình này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo
sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh
tranh giữa các nước. Nội dung và nhịp độ của tái cấu trúc phụ thuộc vào
tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền
kinh tế phải diễn ra đồng thời trên các nội dung sau:


(1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong
tổng sản phẩm quốc dân. Mặt khác, phải hết sức coi trọng vai trò có ý
nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo
đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân.


(2) Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là
phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có
giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh
để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng
thời, phải xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ
cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết
chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản
xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa
lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông
nghiệp với xây dựng nông thôn mới.


(3) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh. Song song đó, mỗi
doanh nghiệp phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công
nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.


(4) Coi trọng hơn thị trường trong nước . Phát triển mạnh hệ
thống phân phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để
có thể làm chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị
trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các
thị trường có hiệp định mậu dịch tự do.


(5) Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập
trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn
lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu
tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các
ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các
ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng
lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm
môi trường.


Để thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, phải chuyển
đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu
tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình
tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về
khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý
hiện đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác
động, có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công
nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ
thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản
lý. Có kỹ năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai
nhân tố trên.


Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi khách quan của quá
trình phát triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay
gắt nhưng không thể hành động theo ý muốn mà phải tạo ra các tiền đề và
điều kiện cho quá trình chuyển đổi. Những tiền đề và điều kiện đó chính
là các đột phá chiến lược. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiến lược tới,
nhất là trong những năm đầu, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá,
kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo
chiều sâu, theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu.


Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là
công việc đòi hỏi sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của cộng đồng doanh
nghiệp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường và hỗ trợ còn doanh
nghiệp là chủ thể, lực lượng chủ công của tiến trình này.
Văn hóa xã
hội là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác lẫn nhau,
tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng con người và
cả cộng đồng. Văn hóa hình thành nên hệ giá trị của một quốc gia, tạo
ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư duy phát
triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”.
Dự thảo Chiến lược xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa
xã hội hài hòa với phát triển kinh tế..., xử lý tốt mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội,
là một động lực phát triển”, đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục quốc dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là một điểm
nhấn của dự thảo Chiến lược, góp phần khắc phục những bất cập, yếu kém,
tạo bước phát triển mới trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội.


Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm
bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, đã có những văn
bản quy định về một số chính sách cụ thể. Dự thảo Chiến lược lần này đã
đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và
toàn diện làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững.
Thể hiện nhận thức đầy đủ hơn về
nguy cơ ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với
sự phát triển bền vững, dự thảo Chiến lược trình bày phương hướng cơ bản
và các chỉ tiêu cụ thể về bảo vệ và cải thiện môi trường, nhấn mạnh yêu
cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
của từng ngành, địa phương, trong từng dự án; đẩy mạnh xã hội hóa công
tác bảo vệ môi trường và phát triển các dịch vụ môi trường. Chủ động
triển khai chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển
dâng; tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động có tính toàn cầu này.


4. Về nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước


Để thực hiện thắng lợi Chiến lược với những nội dung chủ yếu
nêu trên, phải không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Dự thảo Chiến lược đã thể hiện nhận thức sâu
sắc hơn về mối quan hệ giữa ba thành tố của cơ chế này trong điều kiện
Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà
nước và thông qua Nhà nước. Trong cơ chế đó, nhân dân ủy nhiệm cho Nhà
nước thực hiện quyền lực quản lý với chức năng cơ bản là tạo môi trường
cho sự phát triển và phục vụ sự phát triển. Phải đặt yêu cầu tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu lực hiệu
quả quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Dự thảo
xác định các chức năng quản lý và kiến tạo phát triển của Nhà nước, mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; đề ra các giải pháp đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà
nước; nhấn mạnh yêu cầu phát huy vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân trong việc
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Cùng với việc hoàn thiện các thiết chế
thực hiện dân chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp, Dự thảo đề cao vai trò
phản biện xã hội, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước các cấp.
Thông qua phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình mà góp phần hoàn
thiện chính sách và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý.


III. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong năm đầu thực hiện Chiến lược


Những quan điểm và định hướng của Chiến lược 2011 - 2020 phải
được thể hiện ngay trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.
Chính phủ đã báo cáo và Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2011. Nghị quyết đã nêu toàn diện
mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp lớn. Sau đây là những nhiệm vụ trọng
tâm của năm 2011.


1. Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát


Chúng ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2011 trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn,
giá cả hàng hóa tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực
đồng Euro có nguy cơ lan rộng, đồng Đô la Mỹ - đồng tiền chủ yếu trong
thanh toán quốc tế bị giảm giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu
tư, gây biến động lớn thị trường tài chính quốc tế.


Ở trong nước, năm 2010 kinh tế phục hồi và đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao (6,78%), xuất khẩu tăng nhanh (25,5%), nhập siêu chỉ còn
bằng 17,3% kim ngạch xuất khẩu, thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể
giảm mạnh. Tuy nhiên, lạm phát và lãi suất tăng cao, tỷ giá biến động,
gây sức ép đến ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh khó khăn và đe
doạ tăng trưởng bền vững. Trước tình hình đó, năm 2011 phải tập trung
sức để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát , coi đây
là nhiệm vụ trọng tâm.


Phải giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; kiên quyết
cắt giảm các công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung nguồn lực cho
các dự án tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng;
giảm bội chi ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại, kiềm chế tốc độ
tăng giá. Thực tiễn những năm qua, cho thấy, chính sách vĩ mô phải
chuyển những thông điệp rõ ràng nhằm tạo niềm tin cho thị trường và định
hướng cho sản xuất kinh doanh. Phải theo sát sự vận động của kinh tế
thế giới và trong nước; nâng cao năng lực dự báo, chủ động, nhạy bén
trong phản ứng chính sách; linh hoạt sử dụng phù hợp các công cụ của
chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, hạn chế sử dụng các biện
pháp hành chính khi không thực sự cần thiết; nâng cao hiệu quả bình ổn
và điều hòa nguồn vốn giữa các tổ chức tín dụng của thị trường liên ngân
hàng; kết hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để ổn
định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Tăng cường giám sát hoạt động
của các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, bảo
đảm kinh doanh trung thực, tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn.


2. Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng


Tập trung hoàn thiện thể chế, tạo lập thị trường đất đai lành
mạnh trên nguyên tắc đất đai là công thổ quốc gia và là tư liệu sản xuất
chủ yếu của nông dân. Nhà nước và người giao lại quyền sử dụng đất phải
là những đối tượng được hưởng lợi chủ yếu từ việc chuyển giao quyền sử
dụng đất. Đây là nguyên tắc cơ bản để hình thành chính sách và thị
trường đất đai.


Đẩy nhanh tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Việc đổi
mới doanh nghiệp nhà nước tuy là một nội dung của tái cấu trúc doanh
nghiệp nhưng lại là điều kiện để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế - một tiêu chí của kinh tế thị trường.
Phương hướng và nội dung chủ yếu của đổi mới doanh nghiệp nhà nước là
đẩy mạnh cổ phần hoá và cải cách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước cần tập trung vào một số lĩnh vực
chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, phải chuyển từ hoạt động đa dạng sang
chuyên môn hoá nhằm thực hiện chính sách cơ cấu; đẩy mạnh đổi mới và
sáng tạo, nâng cao hiệu quả và tạo lập năng lực cạnh tranh dài hạn để có
thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Điều quan
trọng là phải đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh và quy
định các chỉ tiêu chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Cải cách cơ
chế và tổ chức nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý
nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực
hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai kết quả kiểm toán.


Năm 2011, phải triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển công
nghiệp hỗ trợ, coi đây là một nội dung trọng tâm của tái cấu trúc các
ngành sản xuất công nghiệp. Khẩn trương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách
phát triển và tổ chức quản lý công nghiệp hỗ trợ. Tạo sự gắn kết giữa
các doanh nghiệp chế tạo với doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp
trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn và phát
triển công nghiệp hỗ trợ theo cụm nhóm sản phẩm trên cơ sở thị trường có
sự định hướng của Nhà nước, tập trung vào một số sản phẩm cơ khí, thiết
bị điện, điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin... Khuyến khích các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.


Phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có
tác động lan toả rộng như dịch vụ du lịch, dịch vụ phân phối, vận tải,
dịch vụ logistics và các dịch vụ cảng biển, nhằm tận dụng vị thế địa
kinh tế của nước ta trong chuỗi cung toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế quản lý
nhằm thúc đẩy dịch vụ tài chính và kinh doanh bất động sản phát triển
lành mạnh. Triển khai chương trình quốc gia phát triển công nghệ thông
tin, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam thành nước mạnh về công nghệ
thông tin.


Nhận thức đầy đủ hơn vai trò quan trọng có tính chiến lược của
nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
triển khai mạnh mẽ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp,
nông dân và nông thôn. Đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình xây dựng
nông thôn mới. Nhà nước tăng đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh
nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, đầu tư
phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến nhằm tạo ra các sản
phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh. Tăng
cường công tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm
từ sản xuất, chế biến, lưu thông đến tiêu dùng. Đầu tư mạnh hơn cho hệ
thống bảo quản, dự trữ để giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa,
điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.


3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, phát
triển sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường , tập trung vào các
nhiệm vụ sau đây:


Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư để huy động các nguồn
lực cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả đầu tư; mở rộng các hình
thức đầu tư theo cơ chế BOT, BT, khẩn trương ban hành quy định về hợp
tác công - tư (PPP) để phát triển hệ thống giao thông, nhất là các công
trình lớn. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, xác lập
quyền sử dụng đất, thủ tục hải quan, thuế, nhằm giảm chi phí kinh doanh
cho doanh nghiệp.


Cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Hướng mạnh
hoạt động của Ngân hàng phát triển vào việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ; tăng nguồn kinh phí bảo lãnh tín dụng và năng lực thẩm định dự án
được bảo lãnh của Ngân hàng này. Ưu tiên nguồn tín dụng cho các sản phẩm
trọng điểm. Nghiên cứu việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các khu vực
doanh nghiệp theo mức đóng góp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu.


Phát triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt
động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường nước ngoài, tăng nhanh kim
ngạch xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra chất lượng các mặt hàng nhập khẩu,
bảo vệ người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất trong nước. Coi trọng
hơn thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn. Đẩy mạnh cuộc vận
động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.


4. Phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc


Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến lược an sinh xã hội
2011 - 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình việc làm
giai đoạn 2011 - 2015; phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm 2% theo
chuẩn mới ; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng mạng lưới an sinh
xã hội .


Hoàn thiện chính sách khám chữa bệnh, chính sách viện phí. Đẩy
nhanh tiến độ xây dựng các bệnh viện từ nguồn vốn Nhà nước, khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng bệnh viện; tăng cường đưa bác sỹ
về các bệnh viện tuyến huyện và các xã, bảo đảm sự đồng bộ giữa cơ sở
vật chất, trang thiết bị với đội ngũ thầy thuốc sử dụng các trang thiết
bị, cải thiện chất lượng khám chữa bệnh ở các bệnh viện tuyến dưới, giảm
tải cho các bệnh viện tuyến trên. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc
chữa bệnh, về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.


Thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng giáo
dục; tiếp tục thực hiện các đề án về giáo dục đào tạo đã được phê duyệt;
coi trọng chất lượng giáo dục phổ thông trên cả hai nội dung dạy chữ và
rèn luyện nhân cách, dạy làm người. Trên cơ sở bảo đảm đội ngũ giáo
viên, điều kiện dạy và học để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo
dục đại học và cao đẳng; triển khai xây dựng một số trường đại học chất
lượng cao theo chương trình hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế.
Phát triển mạnh đào tạo nghề với số lượng và cơ cấu phù hợp với nhu cầu
thị trường, chú trọng đào tạo nghề cho công nghiệp hỗ trợ. Phát triển
nhanh thị trường công nghệ. Ban hành các chính sách khuyến khích doanh
nghiệp ứng dụng và đổi mới công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.


Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, hướng mạnh vào
xây dựng văn hóa trong ứng xử, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, làm
cho văn hóa thấm sâu vào hành vi và nếp sống của mỗi người Việt Nam.


Làm tốt công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân
và doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Tăng cường kiểm tra, thanh
tra và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật. Triển khai Chương trình
mục tiêu và Kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu,
nhất là nước biển dâng, các chương trình nâng cấp đê biển, đê sông, các
giải pháp chống ngập úng cho các thành phố lớn; ứng phó có hiệu quả với
thiên tai bão lũ.


Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp;
phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và báo chí trong
cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện có hiệu quả
các chương trình phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội ; bảo đảm
trật tự an toàn giao thông.


5. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế quản lý trên nguyên tắc bảo đảm
quyền dân chủ của nhân dân và thúc đẩy hình thành đồng bộ các yếu tố của
kinh tế thị trường. Rà soát lại hệ thống phân cấp, bảo đảm tăng cường
sự quản lý thống nhất của trung ương về quy hoạch phát triển, khai thác
tối đa lợi thế so sánh theo tầm nhìn liên vùng nhằm tiết kiệm nguồn lực
và bảo đảm quy mô kinh tế; đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo và tinh thần trách nhiệm của địa phương, cơ sở. Chuẩn bị tốt việc
bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân và kiện toàn chính quyền các cấp
nhiệm kỳ mới theo yêu cầu xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn,
hiệu lực hiệu quả; lấy phục vụ nhân dân làm chức năng chủ yếu của chính
quyền các cấp.


Cùng với những nhiệm vụ nêu trên, chúng ta phải luôn coi trọng
và thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo môi trường
hoà bình ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.


Chính phủ và các Bộ ngành, địa phương phải dành sự quan tâm chỉ
đạo tốt công tác chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Tân Mão, thực hiện đồng bộ
các giải pháp để bảo đảm nguồn hàng, kiểm soát giá cả, giữ vững an ninh
trật tự xã hội, bảo đảm an toàn giao thông; chăm lo cho người nghèo và
các đối tượng chính sách để mọi người dân đều được đón Tết vui tươi,
lành mạnh, tiết kiệm.

Thời gian vừa qua, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã sôi nổi đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình
Đại hội Đảng lần thứ XI. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng Đại hội sẽ đề
ra một Chiến lược đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức
thực hiện tốt Chiến lược mà trước hết là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
năm 2011 là việc làm thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đi
vào cuộc sống và thực hiện điều căn dặn của Bác Hồ kính yêu trước khi
Người đi xa là “ Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh
tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân ”.
Hiepsi_Anhsang
Hiepsi_Anhsang
Smoderator
Smoderator

Tham gia : 11/12/2009
Bài viết : 719


Về Đầu Trang Go down

Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Empty Re: Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Bài gửi by test 03/01/11, 06:10 pm

Bài viết đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 623484
Hy vọng chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ làm cho VN thành quốc gia giàu mạnh, văn minh
test
test
Developer Team
Developer Team

Tham gia : 16/03/2010
Bài viết : 1760


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết