Hải Hậu A
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN

Go down

Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN Empty Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN

Bài gửi by troly 12/04/10, 08:48 am

Tuần Việt Nam xin giới thiệu nội dung cơ bản của bản báo cáo trong khuôn khổ
Asia Programs của Trường lãnh đạo Kennedy thuộc ĐH Harvard, do hai tác
giả Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson thực hiện với tựa đề: Giáo dục
đại học - cao đẳng Việt Nam: Khủng hoảng và đối phó.

Chúng tôi bắt đầu bằng việc phân tích tính nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng và những nguyên nhân căn bản của nó.

Sau đó, chúng tôi xem xét các nhân tố chủ yếu – Chính phủ Việt Nam,
người dân Việt Nam và cộng động quốc tế - đang phản ứng như thế nào
trước tình hình này.

Chúng tôi đi đến kết luận bằng việc nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc đổi mới về mặt thể chế như một thành tố cần thiết của một quá trình
cải cách hiệu quả.

Quy mô của cuộc khủng hoảng
Rất khó để phóng đại tính chất nghiêm trọng của những thách thức đang
đặt ra với Việt Nam trong giáo dục đại học - cao đẳng (ĐH - CĐ). Chúng
tôi tin rằng nếu không có một sự cải cách khẩn cấp và căn bản đối với hệ
thống giáo dục ĐH - CĐ, Việt Nam sẽ không đạt được đúng mức tiềm năng
to lớn của mình [1].
Sự phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật
thiết giữa phát triển và giáo dục ĐH - CĐ. Cho dù trong các nước và vùng
lãnh thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và
gần đây là Trung Quốc - mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển
độc đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất
quán một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao.
Một số nước tương đối kém thành công hơn ở Đông Nam Á – Thái Lan,
Philippines và Indonesia - lại là một câu chuyện mang tính cảnh báo.
Những nước này nói chung đã không đạt được chất lượng cao trong khoa học
và giáo dục ĐH – CĐ và họ đã thất bại trong việc phát triển những nền
kinh tế tiến bộ. Đó không phải là một điềm tốt cho tương lai nếu các
trường đại học Việt Nam tụt hậu xa so với chính những láng giềng Đông
Nam Á không mấy nổi bật của họ.
Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công
nhận. Không có một cơ sở nào của Việt Nam có tên trong bất cứ danh sách
được sử dụng rộng rãi nào (nếu nhận định trên còn chưa rõ ràng) tập hợp
các trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam
khác xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có
thể kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học
Việt Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế [2],
như những gì thể hiện qua số liệu nghèo nàn tại thống kê dưới đây:


Bài viết được xuất bản trên các tạp chí khoa
học năm 2007
Cơ sởQuốc giaSố bài viết
Đại học tổng hợp Quốc gia SeoulHàn Quốc5.060
Đại học tổng hợp Quốc gia SingaporeSingapore3.598
Đại học tổng hợp Bắc KinhTrung Quốc3.219
Đại học tổng hợp Phúc ĐanTrung Quốc2.343
Đại học tổng hợp MahidolThái Lan950
Đại học tổng hợp ChulalongkornThái Lan822
Đại học tổng hợp MalayaMalaysia504
Đại học tổng hợp PhilippinesPhilippines220
Đại học Quốc gia Việt Nam (Hà Nội và thành phố HCM)Việt Nam52
Viện Khoa học và Công nghệ Việt NamViệt Nam44
Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson Reuters
Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có
trình độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều
tra do các hiệp hội thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh
viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên
môn, một bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng
dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là
dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không
phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém
cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học.
Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất
của họ ở thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một
cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt
Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và
trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu
tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở
những nước mà họ đầu tư.
Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng việc thiếu các công
nhân và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản
xuất. Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn có một ngụ ý khác:
đối lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt
Nam thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của
các chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu.


Chỉ số sáng tạo
Quốc giaSố bằng sáng chế được cấp năm 2006
Hàn Quốc102.633
Trung Quốc26.292
Singapore995
Thailand158
Malaysia147
Philippines76
Việt Nam0
Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review

Nguyên nhân khủng hoảng

Di sản lịch sử

Những vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong giáo dục ĐH – CĐ hiện nay
là một phần hậu quả của lịch sử hiện đại của đất nước này. Chế độ thực
dân Pháp cai trị Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 19 đến tận năm 1945 đầu tư
rất ít ỏi vào giáo dục cấp ba, thậm chí là so với các cường quốc thực
dân khác. Hậu quả là, Việt Nam đã bỏ lỡ làn sóng cải cách thể chế trong
giáo dục ĐH – CĐ tràn qua phần lớn khu vực châu Á đầu thế kỷ 20. Trong
giai đoạn này, rất nhiều cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hàng đầu của khu vực đã
được thành lập. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một
nền tảng thể chế rất yếu để từ đó xây dựng lên. (Điều này trái ngược hẳn
với Trung Quốc, hầu hết các trường đại học đầu bảng của nước này hiện
nay đều được thành lập vững chắc từ trước cách mạng).

Quản lý
Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất
bại ngiêm trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ
Boston đến Bắc Kinh, đều có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam
hiện đang rất thiếu [3].
Tự trị: Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý
tập trung hoá cao độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh
viên các trường được phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học
công lập) lương trả cho các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết
định mang tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như
việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ
thống này hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh
hay đổi mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm niên, và lương cứng thấp
đến nỗi các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều để có thể đảm bảo
cuộc sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa thực sự khuyến
khích người Việt Nam học ở nước ngoài.

Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN ThiDH

Các thí sinh trong kỳ thi đại học. Ảnh:
VNN
Lựa chọn dựa trên thành tích: Tham nhũng lan tràn và việc
mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất phổ biến [4]. Các hệ
thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm thường dựa trên những
tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch gia đình và chính trị,
và các mối quan hệ cá nhân. Các khoa và các cấp hành chính cao hơn có xu
hướng do các cá nhân từng được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu nắm giữ,
những người này không nói được tiếng Anh và, trong không ít trường hợp
không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào tạo ở phương Tây.
Các mối liên hệ và tiêu chuẩn quốc tế: Sản sinh kiến thức là
việc của một doanh nghiệp không biên giới, nhưng các cơ sở học thuật ở
Việt Nam lại thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Trên thực tế,
các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường xuyên lấy lý do để
tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam là họ lo sợ không
thể gắn bó với lĩnh vực của mình. Như GS. Hoàng Tụy miêu tả, giới học
thuật Việt Nam rất hướng nội và không đánh giá bản thân theo các tiêu
chuẩn quốc tế.
Trách nhiệm giải trình: Các trường đại học Việt Nam không
chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, và đáng trách là trong đó
có cả những người tuyển dụng. Trong nội bộ hệ thống công lập, việc rót
vốn không liên quan đến công việc hay chất lượng theo bất cứ hình thức
đáng kể nào. Tương tự, kinh phí nghiên cứu của Chính phủ cũng không được
cấp một cách có cạnh tranh mà chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung
lương. Vì có quá nhiều người thèm muốn những cánh cửa hẹp vào các
trường đại học - chỉ 1/10 người Việt Nam ở độ tuổi học đại học được
tuyển sinh vào các trường sau phổ thông – nên các trường đại học Việt
Nam không phải chịu áp lực đổi mới nào. Họ có một thị trường bị giam
cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ.
Tự do học thuật: Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các
trường đại học ở Việt Nam cũng thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng
kể. Ngay cả khi các trường đại học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn
có một mạng lưới các kiểm soát và kiềm chế chính thức và không chính
thức để đảm bảo rằng các trường đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức
trong khi các cuộc tranh luận trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn.
Có một số ẩn ý trong luận điểm trên. Trước hết, rào cản chính đối với
việc cho ra những kết quả cải thiện hơn trong giáo dục ĐH – CĐ lại
không phải là chuyện tài chính. Trên thực tế, tính theo tỉ lệ trong GDP,
Việt Nam chi nhiều cho giáo dục hơn nhiều nước khác trong khu vực. Con
số này còn chưa tính đến số tiền lớn mà chính các gia đình Việt Nam đầu
tư vào giáo dục cho con cái họ, ở nhà và ở nước ngoài. Nhưng tiêu tiền
như thế nào lại là chuyện khác.
Thứ hai, đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi
trường chuyên môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam
được đào tạo ở nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy

Chú thích
1. Để có sự phân tích hệ thống và so sánh về những thách
thức chính sách đối với Việt Nam, xem “Choosing Success: The
Development of East and Southeast Asia and Lessons for Việt Nam”,

tại: http://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=98251.
2. Hệ thống đại học Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ hệ
thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học về cơ bản là
các cơ sở giảng dạy, còn nghiên cứu là việc của các viện nghiên cứu.
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tại các
trường đại học nhưng chưa thành công, nguyên nhân có nêu dưới đây. Theo Bảng
1
, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng không hoạt động tốt lắm.
3. Phân tích của chúng tôi về những thất bại trong quản lý
của Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những tìm hiểu của Task Force về giáo
dục ĐH – CĐ, do WB và UNESCO tập hợp, do GS. Henry Rosovsky của ĐH
Harvard và GS. Mamphela Ramphele của ĐH Cape Town làm đồng chủ tịch.
Trong báo cáo cuối cùng của mình, Peril and Promise: The Challenges
of Higher Education in Developing Countries,
Task Force kết luận
rằng quản lý là rào cản cơ bản phổ biến đối với việc đạt được những kết
quả tốt. (Có tại http://www.tfhe.net/).
GS. Rosovsky là cố vấn của Viện Ash trong các hoạt động liên quan đến
cải cách thể chế ở Việt Nam.
4. Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những thành tố của hệ
thống đại học giúp nó không bị tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu làm cho
què quặt là các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chính phủ phải huy động rất
nhiều nguồn lực đáng kể để đảm bảo quá trình thi cử không có gian lận.
Kết quả là, những sinh viên được nhận vào học là những sinh viên tài
năng và nhiều người có thể thành công trong việc bổ sung cho các giáo
trình cũ kỹ bằng cách tự học.
troly
troly
Administrator
Administrator

Tham gia : 22/12/2009
Bài viết : 553


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết