Hải Hậu A
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

BÁCH KHOA TRI THỨC ***

Go down

BÁCH KHOA TRI THỨC *** Empty BÁCH KHOA TRI THỨC ***

Bài gửi by Admin 30/12/09, 12:22 pm

Các chuyên gia dạy cờ đã phát hiện trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có

tư duy logic. Nó cũng đặc biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi.


Trên bàn cờ, mọi thứ giống như một cuộc chiến thu nhỏ, buộc trẻ phải động não nhiều thứ. Ảnh: Getty.

Khi thầy dạy cờ Charles Wood bước vào một lớp học trong thành phố Bradford, Anh, ông chuẩn bị cho một cuộc

chiến.

"Tôi hỏi bọn trẻ 'Các em nghĩ cờ vua thế nào?', Thông thường, chúng sẽ nói 'Nó thật chán, dành cho những

người lập dị'. Tôi bảo chúng 'Không. Đó là một cuộc chiến tranh'. Tôi mô tả những tòa lâu đài, những người lính

gác, và các cuộc chiến...".

Chỉ sau 15 phút, Wood cho biết ông có thể lôi kéo các học sinh vào một ván cờ mà ông tin rằng nó có thể làm

thay đổi cuộc đời hay thái độ hung hăng thành những cuộc cạnh tranh lành mạnh, ứng xử thông minh và làm

tăng khả năng tự tin ở trẻ.

Trong năm qua, nhà cựu kinh doanh này đã thuyết phục được 800 trẻ em ở 80 trường học tham gia chơi cờ,

trong một kế hoạch nhắm đến những em nhỏ kém triển vọng nhất.

Với những trẻ bị rối loạn phát triển, cờ vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào đó. Trẻ tự kỷ thường

giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này, còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động

giảm chú ý thì nhờ cờ vua mà cải thiện khả năng tập trung.

"Cờ vua có những quy tắc và nghi thức, chẳng hạn trẻ phải đợi đến lượt mình. Cờ vua dạy trẻ điều đó, và chúng

học để áp dụng vào phần còn lại của đời sống", Wood nói.

Nghiên cứu trên các trẻ em học tiểu học được thực hiện bởi Đại học Aberdeen, đã tìm thấy cờ vua có thể cải

thiện kỹ năng hiểu, học toán và làm tăng mức độ linh hoạt. Wood tin rằng nó có thể làm nhiều hơn thế: "Đây

không phải là việc dạy đánh cờ, nó là việc dạy trẻ học cách đánh. Nó là lịch sử, toán học, logic, và cũng là cách

kể chuyện".

Cậu bé Kieran Barrass, 9 tuổi, từng vật lộn để ra khỏi vị trí bét lớp ở trường Southmere khi Wood bắt đầu lớp

học buổi trưa của mình. "Thằng bé tràn đầy năng lượng, trong khi lại quá thiếu sự tập trung", chị Catherine, mẹ

cậu, cho biết.

Chị và chồng đã sửng sốt khi Kieran cho biết cậu sẽ gia nhập câu lạc bộ cờ vua. Kể từ đó, họ tự hào chứng kiến

Kieran chiến thắng qua các cuộc thi đấu, đồng thời cải thiện đáng kể khả năng tập trung, từ đó xuất sắc cải thiện

việc học ở trường.

Cậu bé không ngồi yên bao giờ nay có thể ngồi suốt 4 tiếng để tính toán một nước đi, Catherine kể. Kieran cũng

vui vẻ giải thích tại sao cậu yêu cờ vua đến thế: "Nó thực sự thú vị và khiến cháu thông minh hơn. Giờ cháu đã

luôn đứng trong top đầu ở mọi lĩnh vực".


>>KBZ 31:
Muốn con thông minh, hãy cho chúng chơi cờ vua
Các chuyên gia dạy cờ đã phát hiện trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có

tư duy logic. Nó cũng đặc biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi.

Khi thầy dạy cờ Charles Wood bước vào một lớp học trong thành phố Bradford, Anh, ông chuẩn bị cho một cuộc

chiến.

"Tôi hỏi bọn trẻ 'Các em nghĩ cờ vua thế nào?', Thông thường, chúng sẽ nói 'Nó thật chán, dành cho những

người lập dị'. Tôi bảo chúng 'Không. Đó là một cuộc chiến tranh'. Tôi mô tả những tòa lâu đài, những người lính

gác, và các cuộc chiến...".

Chỉ sau 15 phút, Wood cho biết ông có thể lôi kéo các học sinh vào một ván cờ mà ông tin rằng nó có thể làm

thay đổi cuộc đời hay thái độ hung hăng thành những cuộc cạnh tranh lành mạnh, ứng xử thông minh và làm

tăng khả năng tự tin ở trẻ.

Trong năm qua, nhà cựu kinh doanh này đã thuyết phục được 800 trẻ em ở 80 trường học tham gia chơi cờ,

trong một kế hoạch nhắm đến những em nhỏ kém triển vọng nhất.

Với những trẻ bị rối loạn phát triển, cờ vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào đó. Trẻ tự kỷ thường

giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này, còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động

giảm chú ý thì nhờ cờ vua mà cải thiện khả năng tập trung.

"Cờ vua có những quy tắc và nghi thức, chẳng hạn trẻ phải đợi đến lượt mình. Cờ vua dạy trẻ điều đó, và chúng

học để áp dụng vào phần còn lại của đời sống", Wood nói.

Nghiên cứu trên các trẻ em học tiểu học được thực hiện bởi Đại học Aberdeen, đã tìm thấy cờ vua có thể cải

thiện kỹ năng hiểu, học toán và làm tăng mức độ linh hoạt. Wood tin rằng nó có thể làm nhiều hơn thế: "Đây

không phải là việc dạy đánh cờ, nó là việc dạy trẻ học cách đánh. Nó là lịch sử, toán học, logic, và cũng là cách

kể chuyện".

Cậu bé Kieran Barrass, 9 tuổi, từng vật lộn để ra khỏi vị trí bét lớp ở trường Southmere khi Wood bắt đầu lớp

học buổi trưa của mình. "Thằng bé tràn đầy năng lượng, trong khi lại quá thiếu sự tập trung", chị Catherine, mẹ

cậu, cho biết.

Chị và chồng đã sửng sốt khi Kieran cho biết cậu sẽ gia nhập câu lạc bộ cờ vua. Kể từ đó, họ tự hào chứng kiến

Kieran chiến thắng qua các cuộc thi đấu, đồng thời cải thiện đáng kể khả năng tập trung, từ đó xuất sắc cải thiện

việc học ở trường.

Cậu bé không ngồi yên bao giờ nay có thể ngồi suốt 4 tiếng để tính toán một nước đi, Catherine kể. Kieran cũng

vui vẻ giải thích tại sao cậu yêu cờ vua đến thế: "Nó thực sự thú vị và khiến cháu thông minh hơn. Giờ cháu đã

luôn đứng trong top đầu ở mọi lĩnh vực".

Tại sao chúng ta thấy đau khi ghen tức


>>KBZ 32:
Nghệ thuật điều khiển đám đông
Hitler và Mussolini có khả năng khiến hàng chục triệu người dân tin vào chủ nghĩa phát xít tàn bạo. Giờ đây các

chuyên gia tâm lý và thần kinh đã tìm ra bí quyết giúp họ làm được điều đó.

Scott Wiltermuth, một nhà tâm lý của Đại học Stanford (Mỹ) và một số đồng nghiệp nhận thấy việc tổ chức các

hoạt động tập thể, như diễu hành hoặc nhảy múa, giúp làm tăng lòng trung thành của đám đông đối với nhóm.

"Những hoạt động ấy khiến mọi người cảm thấy họ là một phần của một thực thể lớn hơn, vì thế chúng ta coi tổ

chức như cuộc sống của chúng ta", ông nói.

Nhóm nghiên cứu chia 96 người thành 4 nhóm và cho họ nghe cùng một bài hát. Nhóm thứ nhất nhẩm đọc thầm

lời bài hát, nhóm thứ hai hát thành lời, nhóm thứ ba hát thành lời và nhảy múa theo một kiểu thống nhất, nhóm

thứ tư nghe và nhảy múa loạn xạ. Sau khi bài hát kết thúc, các chuyên gia hỏi tình nguyện viên về suy nghĩ của

họ đối với những người trong nhóm. Kết quả cho thấy phần lớn tình nguyện viên trong nhóm nhảy múa loạn xạ

không muốn tiếp tục tham gia, trong khi ba nhóm kia sẵn sàng ở lại cùng nhau nếu thử nghiệm tiếp tục.

Nhà tâm lý Jonathan Haidt của Đại học Virginia (Mỹ) cho rằng nghiên cứu của nhóm Scott giúp giải thích tại sao

các trùm phát xít trong Thế chiến II hay sử dụng hoạt động diễu hành và hát tập thể để xui khiến đám đông thực

hiện ý chí của họ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng các thủ thuật đó có thể được sử dụng vì mục đích hòa bình.

Chẳng hạn, hoạt động nhảy múa và ca hát tập thể tại một khu vực có mâu thuẫn sắc tộc hoặc tôn giáo có thể

làm dịu căng thẳng.

Trong khi đó, Charles Seger, chuyên gia tâm lý Đại học Indiana (Mỹ) và cộng sự thực hiện một thử nghiệm khác

để tìm hiểu tác động của các hình ảnh tuyên truyền đối với con người. Nhóm nghiên cứu chia sinh viên thành hai

nhóm rồi cho một nhóm xem các bức ảnh liên quan tới trường đại học. Sau đó các chuyên gia yêu cầu sinh viên

tự đánh giá cảm xúc (lòng tự hào, cảm giác hạnh phúc) đối với trường theo thang điểm. Kết quả cho thấy, thang

điểm của những sinh viên xem ảnh cao hơn hẳn so với nhóm không xem.

Jonathan nhận xét rằng não của con người có xu hướng buộc chúng ta bắt chước đồng loại. "Chúng ta được lập

trình để tự động sao chép hành vi của người khác. Trong não người có một loại tế bào thần kinh đặc biệt. Chúng

phát sáng khi chúng ta thực hiện một hành động hoặc xem người khác thực hiện hành động giống hệt chúng ta",

ông nói.

Các nhà khoa học thần kinh đã tìm thấy nhiều bằng chứng ủng hộ giả thiết của Jonathan. Vasily Klucharev,

chuyên gia thần kinh tại Hà Lan, phát hiện ra rằng não giải phóng nhiều dopamine (chất gây hưng phấn) hơn khi

chúng ta cùng tham gia một hoạt động nào đó với nhiều người. Nhóm của ông yêu cầu 24 phụ nữ đánh giá mức

độ hấp dẫn của hơn 200 phụ nữ khác theo một thang điểm. Khi một tình nguyện viên nhận thấy điểm của mình

chênh lệch quá lớn so với nhiều người khác, họ có xu hướng điều chỉnh. Kết quả chụp cộng hưởng từ cho thấy

não của tình nguyện viên phát ra "tín hiệu lỗi" mỗi khi một phụ nữ nhận ra sự khác biệt về điểm số so với người

khác. "Đó là cách chúng ta học cách làm theo đám đông", Vasily kết luận.


>>KBZ 33:
Bạn có thể nhìn ---Nhưng không thể sờ!
Khách hàng thường tâm sự rằng nếu họ làm vỡ một món hàng thì chắc chắn họ sẽ mua nó. Tuy nhiên một

nghiên cứu gần đây cho hay nếu khách hàng chỉ cần chạm vào món hàng nào đó một vài giây thì họ chắc chắn

sẽ dừng ngay ý định muốn mua nó.

Các nhà nghiên cứu đến từ trường đại học bang Ohio và Illinois đã tiến hành thí nghiệm về việc sờ thử hàng hoá

trước khi mua có ảnh hưởng như thế nào tới quyết định mua món hàng đó của khách hàng. Một thí nghiệm đơn

giản được thực hiện với cà phê đã hé mở rất nhiều điều: trong rất nhiều trường hợp chỉ cần khách hàng sờ vào

tách café đó sẽ khiến mọi người có xu hướng mua nhiều hơn. Kết quả này được công bố trên tờ tạp chí Phê

Bình và Quyết Định nhận thấy mọi người có cảm giác rất gấn gũi khi chạm vào tách trà trong vòng 30 giây đầu

tiên.

Nếu mọi người cầm tách café lâu hơn một vài giây thì dường như họ không chỉ bị cuốn vào trả giá cao hơn

những người khác trong buổi đấu giá ấy mà họ còn sẵn sàng trả giá món hàng ấy cao hơn gấp nhiều lần so với

giá bán lẻ của mặt hàng đó.

"Phần gây ngạc nhiên nhất trong nghiên cứu này đó là con người có thể nhanh chóng trở nên gắn bó với một vật

cho dù vật đó không hề giá trị giống như một chiếc tách café." Tác giả bài nghiên cứu James Wolf đã bắt đầu sự

nghiệp trong khi ông còn là một nghiên cứu sinh ở bang Ohio.

"Chỉ đơn giản chạm vào chiếc tách và cảm nhận nó trên tay, rất nhiều người cảm thấy chiếc tách giống như

chiếc tách của chính họ vậy. Khi mà họ đã cảm nhận nó như của mình thì họ sẽ sẵn sàng tiến xa hơn để có nó."

Các bài nghiên cứu trước đây cũng chứng minh rằng nhiều khách hàng muốn có cảm giác sở hữu một vật nào

đó lâu dài trước khi mà họ thực sự có nó. Thế nhưng đây là bài nghiên cứu đầu tiên phân tích vấn đề này. Cảm

giác sở hữu thường có ngay sau khi khách hàng có tiếp xúc trực tiếp với vật đó khoảng chừng 30 giây, theo lời

ông Wolf, một trợ giảng cho khoa Thông tin tại Đại học bang Illinois.


Khách hàng thường tâm sự rằng nếu họ làm vỡ một món hàng thì chắc chắn họ sẽ mua nó. Tuy nhiên một

nghiên cứu gần đây cho hay nếu khách hàng chỉ cần chạm vào món hàng nào đó một vài giây thì họ chắc chắn

sẽ dừng ngay ý định muốn mua nó. (Ảnh: iStockphoto/Carmen Martínez Banús)
Để giải thích cho việc cảm giác khi chạm vào vật có thể ảnh hưởng đến đánh giá của một người về chính vật đó,

các nhà nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra thử ở 144 người trong một trường đại học lớn. Mọi người đươc yêu

cầu để đấu giá về các tách trà trong cuộc đấu giá mở hay kín sau khi kiểm tra khoảng thời gian mọi người chạm

và cảm nhận chiếc tách.

Những người tham gia được đưa cho chiếc tách ngay đầu tiên của buổi thí nghiệm. Những người thí nghiệm

trong khoảng thời gian ngắn thì được yêu cầu xem xét chiếc tách trong 10 giây trong khi những người được yếu

cầu thí nghiệm trong thời gian lâu hơn thì được yêu cầu xem xét nó trong vòng 30 giây.

Sau khi xem xét kỹ, họ được yêu cầu để trả giá chiếc tách. Những người tham gia đấu giá kín thì được yêu cầu

viết giá đấu tối đa cho chiếc tách trị giá 3.95$ của họ lên một mẩu giấy địa điểm tại cửa hàng sách gần trường.

Sau đó học gập tờ giấy lại để không ai có thể nhìn thấy giá đấu thầu trong buổi đấu giá. Còn những người trong

cuộc đấu giá mở thì được phép biết giá chào của những người khác. Những người tham gia đấu giá mở trả giá

cho chiếc tách trị giá 4.95$ qua một cuộc đấu giá trên máy tính tương tự như eBay, nơi mà họ có thể nhìn thấy

giá đấu thầu cao nhất và thời gian thầu còn lại.

Các cuộc đấu giá mở có thời gian kết thúc thường xê dịch hơn, có nghĩa là thời gian của buổi đấu giá có thể

được kéo dài hơn cho mỗi lần giá đấu thầu trong khoảng 15 giây cuối cùng. Mỗi đợt kết thúc như vậy nhằm làm

giảm bớt sức ép của lần đấu giá thứ hai cuối cùng.

Tất cả những người tham gia buổi đấu giá đều được nói trước giá bán lẻ của chiếc tách café trước khi buổi đấu

giá bắt đầu. Họ cũng thông báo rằng một số loại tách điển hình đều có sẵn để bán gần địa điểm thí nghiệm.

Tất cả mọi người đều nhận được 10$ nếu tham gia vào thí nghiệm này; và họ cũng được thông báo rằng nếu

nhà thắng thầu sẽ có quyền nhận được các sản phẩm miễn phí.

Kết quả chứng minh rằng nếu người nào chạm vào chiếc tách trong vòng 30 giây thì trả giá sẽ cao hơn những

người chỉ chạm vào nó 10 giây. Mức giá trả trung bình trong mỗi phiên đấu giá mở là 2.44$ nếu người đó chạm

vào chiếc tách 10 giây và 3.91$ nếu người đó chạm trong vòng 30 giây. Phát hiện này cũng chính xác đối với các

trường hợp trong phiên đấu giá kín như chạm vào vật trong 10 giây thì trả giá 2.24$ và 3.07$ nếu chạm 30 giây.

Thực tế, các nhà nghiên cứu thường sử dụng các tách trà rẻ và không đáng giá lắm, theo lời Hal Arkes.

"Chúng tôi dùng phụ tùng đi kèm không phải là một chiếc ô tô mới hoặc một bộ đồ mới mà lại là một chiếc tách.

Và chúng tôi đã tìm thấy sự khác biệt khá lớn trong cách đánh giá của mọi người liên quan đến vấn đề thời gian."

Arkes, giáo sư tâm lý học danh dự ở Bang Ohio nói.

Sự khác biệt tiếp tục được phát hiện thêm khi các nhà nghiên cứu quan sát thấy giá thắng thầu thường vượt quá

giá bán lẻ của chiếc tách đó.

Tất cả những người tham gia đều được nói trước giá bán lẻ của chiếc tách đó trước khi họ đấu giá. Tuy nhiên

khi mọi người cầm chiếc tách đó trong vòng 30 giây thì lại trả giá cao hơn giá bán lẻ đến 4 đến 7 lần. Mặc dù các

chiếc tách trị giá tới 4.49$, nhưng giá chiếc tách qua đấu thầu cao lên tới 10$ khi nó được cầm lâu hơn.

Ngược lại, những người thắng khi đấu giá trong nhóm 10 giây thì chỉ vượt giá bán lẻ có một lần.
Đồng tác giả nghiên cứu Waleed Muhanna, phó giáo sư ngành quản lý thông tin tại Bang Ohio, nói về xu hướng

những người tham gia nếu cầm chiếc tách lâu hơn thì sẽ trả giá cao hơn nhiều giá bán lẻ có thể giảm xuống

theo mức gắn bó với vật.

Muhanna nói "Mức gắn bó với vật dường như cũng tăng lên theo nếu sự tiếp xúc cơ học lớn. Và một giải thích

cho xu hướng này đó là nếu người nào mà sở hữu vật lâu hơn, thì họ sẽ có cảm giác gần gũi và hào hứng để

giữ vật hơn. Mọi nguời trở nên gắn bó và sẵn sàng để trả nhiều hơn để không tuột mất nó."

Trong khi nghiên cứu này có thể giúp các nhà nghiên cứu hiểu thêm về thói quen mua bán của khách hàng, thì

nhiều nhà bán lẻ lại áp dụng thủ thuật thử rồi mua trong nhiêu năm liền. Những đại lý ô tô thường cho khách hàng

lái thử xe về nhà và các cửa hàng bán thú nuôi khuyến khích những người trông hàng chơi với thú bông bởi vì họ

biết sự gần gũi với vật sẽ làm khách hàng của họ sẵn sàng mua sản phẩm hơn.

Tuy nhiên Wolf nói rằng hiểu được sự gắn bó này sẽ giúp người mua có được lựa chọn thông minh.

"Khi bạn ngồi sau bánh một chiếc ô tô mới, bạn biết bạn đang có được sự đánh giá về nó nhiều hơn và có thể

bạn sẵn sàng trả cao hơn để mua nó. Nhưng tiếp tục như thế bạn hiểu bạn đang đẩy giá lên cao hơn, có thể bạn

sẽ có tâm lý nếu không mua vội vàng thì bạn sẽ hối tiếc sau này."

Bài nghiên cứu này được tài trợ một phần bởi quỹ Jensen-Wallin-Young Bang Ohio.


>>KBZ 34:
Hung dữ khi uống rượu là do di truyền
Các nhà khoa học Phần Lan vừa tìm ra nguyên nhân khiến một số người trở nên hung dữ khi uống nhiều chất có

cồn, trong khi nhiều người khác chỉ lặng lẽ đi ngủ.

Tiến sĩ Roope Tikkanen, một nhà khoa học của bệnh viện Đại học Helsinki (Phần Lan), khẳng định hành vi uống

rượu và xu hướng bạo lực có quan hệ về mặt di truyền.

"Con người phản ứng rất khác nhau khi uống rượu. Phần lớn cảm thấy thoải mái và thích nói chuyện, trong khi

một số tỏ ra bốc đồng và hung dữ", Roope nói.

Roope và cộng sự tiến hành phân tích gene của 174 nam giới từng nghiện chất có cồn và có hành vi bạo lực khi

say. Họ nhận thấy chất cồn làm tăng nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực ở đàn ông có một loại gene sản xuất

chất monoamine oxidase A.

Nếu monoamine oxidase A tồn tại trong cơ thể với hàm lượng quá cao, người ta có xu hướng thực hiện các

hành động không thể kiểm soát khi uống các chất có cồn. Nhưng tác dụng của nó giảm dần khi tuổi tác tăng lên.

"Phát hiện này có thể giúp các chuyên gia dược chế tạo những loại thuốc ngăn chặn hành vi hung hăng của con

người khi say rượu hoặc bia", tiến sĩ Roope nhận định

>>KBZ 35:
Giải mã bí ẩn vì sao bé sơ sinh hay khóc
Các em bé sơ sinh rất 'thèm được giao tiếp', được hiểu, trò chuyện và đụng chạm, một nghiên cứu mới vừa tiết

lộ.


Ảnh: dailymail.co.uk.

Tiến sĩ Emese Nagy, từ Đại học Dundee, đã tìm hiểu 90 em bé được sinh ra sau 3 giờ đến 96 giờ. Bà dành 3

phút để mỉm cười, ngắm, nói chuyện và đụng chạm vào các bé, giống như cách mà các bà mẹ vẫn làm.

Sau đó bà làm mặt lạnh, và ngừng đáp ứng cảm xúc với trẻ. Nagy nhận thấy các bé nhìn đi chỗ khác, trở nên

căng thẳng thấy rõ và nhiều bé bắt đầu khóc toáng lên.

Khi cuộc "trò chuyện" được nối lại, lũ trẻ phải mất một khoảng thời gian để xây dựng lại niềm tin của mình, bằng

cách ngọ ngoạy đầu và từ từ lập giao tiếp bằng mắt. Cuối cùng, tiếng khóc của chúng ngừng lại khi lũ trẻ vui vẻ

trở lại.

"Chúng ta dành hầu hết thời gian trong cuộc sống xã hội của mình để giao tiếp và liên hệ với người khác. Điều

này là cực kỳ quan trọng đối với thể chất và tinh thần khỏe mạnh của chúng ta.

"Cảm giác chúng ta thuộc về người khác là nhu cầu cơ bản. Nghiên cứu này cho thấy ngay cả những em bé

mới sinh cũng có nhạy cảm mạnh mẽ đó. Các bé cho thấy sự sẵn sàng để giao tiếp, và chúng phản ứng khi

mình có mặt ở đó mà người khác lại không quan tâm", Nagy nói.


>>KBZ 36:
Phim tình cảm làm hại tình yêu
Nghiên cứu mới của Đại học Heriot Watt ở Edinburgh (Anh) cho thấy việc xem nhiều phim tình cảm lãng mạn sẽ

ảnh hưởng không tốt đến tình yêu.

Các chuyên gia tâm lý nghiên cứu về các mối quan hệ tại Đại học Heriot Watt nhận định, chính những câu

chuyện tình lãng mạn từ các tác phẩm điện ảnh khiến người xem tạo cho mình nhiều mong muốn không thực tế

trong tình yêu.

Họ phát hiện ra rằng fan hâm mộ những bộ phim lãng mạn như Runaway Bride (Cô dâu chạy trốn) hay Notting

Hill thường gặp khó khăn trong việc chia sẻ với người yêu, do hay có xu hướng tin rằng đối tượng sẽ hiểu được

những gì họ cần ngay cả khi không nói ra.

Các chuyên gia tâm lý cũng tiến hành một cuộc nghiên cứu với 200 sinh viên tình nguyện. Một nửa trong số này

được yêu cầu xem phim tình cảm trong khi số còn lại xem một bộ phim hiện thực.

Kết quả cho thấy những sinh viên xem thể loại tình cảm lãng mạn có xu hướng tin vào số phận và định mệnh

hơn nhóm còn lại. Khi tiến hành nghiên cứu sâu hơn, họ rút ra kết luận những người hâm mộ thể loại phim tình

cảm thường tin vào những mối duyên tiền định hơn các đối tượng khác.

"Trong khi rất nhiều người nhận thức được rằng khái niệm về mối quan hệ hoàn hảo là vô tưởng, nhưng một số

vẫn bị ảnh hưởng nhiều bởi các câu chuyện mà phim ảnh thêu dệt", tiến sĩ Bjarne Holmes thuộc Đại học Heriot

Watt nhận định.

Một chuyên gia khác tham gia cuộc nghiên cứu là Kimberly Johnson cho hay, các nhà làm phim đã nhầm khi

khắc họa những phẩm chất như sự tin tưởng và cam kết trong tình yêu ngay khi các nhân vật vừa gặp gỡ. Còn

trên thực tế những điều này thường mất nhiều năm mới có thể đạt được.


>>KBZ 37:
Tóc - chỉ điểm tin cậy
Bạn hãy đưa một sợi tóc của mình cho hai nhà khoa học Mỹ là James Ehlinger và Thure Cerling, Trường ĐH

Utah (Hoa Kỳ). Họ không phải là thầy bói, nhưng họ sẽ "phán" nhà bạn ở đâu.


Trên sợi tóc ấy sẽ có bám dính, dù lượng vô cùng nhỏ, các chất khoáng trong vòi nước của bạn đã bị khô đi, và

chúng trở thành nhân chứng tiết lộ nơi bạn đang sống.

Thật vậy, tỷ lệ những đồng vị nặng của hydro và oxy trong nước là những chỉ số rất đặc trưng cho từng vùng,

giảm khi trời mưa và khi tiến dần lên phía Bắc hoặc xa bờ biển. Các nhà khoa học đã thử đi thử lại chỉ số này và

thấy chúng rất phù hợp với con số đo được trên tóc của người sống tại địa phương.

Từ các chỉ số phân tích công phu, hai nhà khoa học nói trên đã vẽ nên một tấm bản đồ đồng vị trong nước của

18 bang trên nước Mỹ và kiểm tra hàm lượng các chất đồng vị của hydro và oxy trên tóc thu lượm từ những tiệm

cắt tóc trong 85% trường hợp. Sự phù hợp đó cho phép chỉ cần lấy một sợi tóc là xác định được vùng cư trú

của một người.

Hơn nữa, Ehlinger và Cerling còn làm một thí nghiệm thú vị. Trong kỳ nghỉ, các nhân viên mỗi người đi nghỉ một

nơi. Khi trở về, hai ông lấy của mỗi người một sợi tóc. Đoán nhận họ đã ở những đâu không hề sai, kể cả một

người sang du lịch tại Bắc Kinh. Ba tháng sau, thử lại, "chữ ký đồng vị" không còn của Trung Quốc nữa, mà tại

chính bang Utah. Việc làm của hai nhà khoa học có thể được ứng dụng rộng rãi trong nhiều mục đích, ví dụ theo

dõi lộ trình của một kẻ phạm pháp, nhưng không chỉ có thế.

James Ehlinger còn hợp tác với các cơ quan điều tra Mỹ xác định nguồn gốc của sợi xenlulôzơ trong những

đồng đôla giả. Thậm chí một viên côcain cũng mang "chữ ký đồng vị" của địa điểm bọn buôn lậu ma tuý sản xuất

ra.

Hiện nay, bản thân James Ehlinger và Thure Cerling đã thành lập một cơ sở điều tra hình sự tư nhân để triển

khai phát minh độc đáo của mình và chắc họ sẽ "bắt các tử thi nói lên một điều gì đó" theo cách nói bóng bảy

của các nhà báo.


>>KBZ 38:

Con trai hay con gái phụ thuộc vào bố
Một nghiên cứu của Đại học Newcastle với sự tham gia của hàng nghìn gia đình là lời giải cho các bậc cha mẹ

về việc liệu họ có con trai hay con gái.

Nghiên cứu của nhà khoa học Corry Gellatly cho thấy rằng đàn ông thừa hưởng từ cha mẹ xu hướng có nhiều

con trai hơn hoặc nhiều con gái hơn. Điều này có nghĩa rằng một người đàn ông có nhiều anh em trai có nhiều

khả năng có con trai, trong khi một người đàn ông có nhiều chị em gái có nhiều khả năng có con gái.

Nghiên cứu được thực hiện dựa trên thông tin của 927 cây phả hệ gia đình và 556.387 người từ Bắc Mỹ và châu

Âu từ những năm 1600.

Gellatly giải thích: "Cây phả hệ gia đình cho thấy xu hướng có con trai hoặc con gái mang tính chất di truyền. Bây

giờ chúng ta biết rằng đàn ông có nhiều khả năng có con trai hơn nếu họ có nhiều anh em trai, và có nhiều khả

năng có con gái hơn nếu có nhiều chị em gái. Tuy nhiên, đối với phụ nữ, bạn không thể dự đoán được gì".

Đàn ông quyết định giới tính của một đứa trẻ dựa trên tinh trùng của họ chứa nhiễm sắc thể X hay Y. Một nhiễm

sắc thể X kết hợp với một nhiễm sắc thể X khác từ người mẹ sẽ hình thành nên bé gái (XX), và một nhiễm sắc

thể Y kết hợp với nhiễm sắc thể của người mẹ sẽ cho ra một bé trai (XY).

Nghiên cứu của Đại học Newcastle cho thấy một gen chưa được phát hiện kiểm soát việc liệu tinh trùng của đàn

ông chứa nhiều nhiễm sắc thể X hoặc nhiều nhiễm sắc thể Y hơn. Điều này ảnh hưởng đến giới tính của đứa trẻ

được sinh ra. Trên quy mô lớn hơn, số lượng đàn ông với tinh trùng chứa nhiều nhiễm sắc thể X hơn so sánh

với số lượng đàn ông với nhiều nhiễm sắc thể Y hơn ảnh hưởng đến tỷ lệ giới tính của trẻ được sinh ra mỗi

năm.

Con trai hay con gái?

Một gen chứa hai phần, được gọi là gen tương ứng, thừa hưởng từ bố mẹ. Trong bài báo của mình, Gellatly

chứng minh rằng rất có khả năng đàn ông chứa hai loại gen tương ứng khác nhau. Điều này dẫn đến 3 khả năng

tổ hợp của một gen kiểm soát tỉ lệ của tinh trùng X và Y.
• Loại tổ hợp đầu tiên, gọi là mm, tạo ra nhiều tinh trùng Y và có nhiều con trai hơn.
• Loại tổ hợp thứ hai, gọi là mf, tạo ra lượng tinh trùng X và Y tương đương, và có số lượng con trai con gái như

nhau.
• Loại tổ hợp thứ ba, gọi là ff, tạo ra nhiều tinh trùng X hơn và có nhiều con gái hơn.

Gellatly cho biết: "Gen thừa hưởng từ cả cha lẫn mẹ khiến một số đàn ông có nhiều con trai hơn và một số khác

có nhiều con gái hơn, có thể giải thích tại sao số lượng đàn ông và đàn bà là tương đương. Nếu có quá nhiều

đàn ông trong cộng đồng, đàn bà sẽ dễ dàng tìm được bạn đời, vì vậy những người đàn ông có nhiều con gái

hơn sẽ di truyền nhiều gen của họ, khiến nhiều bé gái được sinh ra hơn trong những thế hệ tiếp theo".



Nhiều bé trai được sinh ra sau chiến tranh

Ở nhiều nước tham gai vào chiến tranh thế giới, số lượng bé trai được sinh ra thường tăng đột ngột sau chiến

tranh. Năm sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, có thêm hai bé trai sinh ra trên 100 bé gái tại Anh Quốc

khi so sánh với năm trước khi chiến tranh bắt đầu. Gen được Gellatly miêu tả trong nghiên cứu của mình có thể

giải thích tại sao hiện tượng này xảy ra.
Những người đàn ông với nhiều con trai hơn, có khả năng một trong số đó quay trở về từ mặt trận và cũng có xu

hướng, thừa kế từ cha mình, trở thành cha của những bé trai. Ngược lại, những người đàn ông với nhiều con

gái hơn, có thể mất đứa con duy nhất trong chiến tranh. Những người này có xu hướng trở thành cha của những

bé gái. Điều này giải thích tại sao những người đàn ông sống sót qua chiến trận có xu hướng có con trai và khiến

tỷ lệ bé trai được sinh ra tăng mạnh.

Ở hầu hết các nước, trong những dữ liệu tồn tại, luôn có nhiều bé trai hơn bé gái được sinh ra. Tại Anh Quốc và

Hoa Kỳ, hiện có 105 bé trai được sinh ra trên 100 bé gái.

Cũng có rất nhiều tài liệu ghi chép rằng nhiều bé trai chết sớm trước khi đủ trưởng thành để có con. Vì vậy

tương tự như việc gen khiến nhiều con trai được sinh ra sau chiến tranh, nó cũng có thể khiến nhiều bé trai

được sinh ra mỗi năm

Hoạt động của gen?

Phả hệ (bên trên) minh họa hoạt động của gen. Đây là một ví dụ được đơn giản hóa, trong đó đàn ông chỉ có con

trai, hoặc chỉ có con gái, hoặc có số lượng con trai và con gái bằng nahu. Nó cho thây rằng mặc dù gen này

không ảnh hưởng đến phụ nữ, những họ cũng mang gen đó và kế thừa lại cho con cái.

Trong cây phả hệ đầu tiên (A), người ông là mm, vì vậy tất cả con cái đều là con trai. Ông chỉ cho gen tương ứng

là m, vì vậy những đứa con của ông có nhiều khả năng hình thành tổ hợp mm hơn. Vì vậy, những người con trai

có thể chỉ sinh ra con trai. Những cháu nội có thể có tổ hợp gen tương ứng mf, vì họ thừa hưởng m từ cha và f

từ mẹ. Do đó, họ có số lượng con trai và con gái tương đương (chắt).

Trong cây phả hệ thứ hai (B) người ông là ff, vì vậy chỉ có con gái, và họ có tổ hợp gen tương ứng ff, vì cả cha

lẫn mẹ họ đều mang gen ff. Một trong những người con gái có con với một người đàn ông có tổ hợp gen mm.

Người đàn ông đó quyết định giới tính của những đứa con, vì vậy cháu ngoại đều là con trai. Những đứa cháu

ngoại có tổ hợp gen tương ứng mf, vì họ thừa hưởng m từ cha và f từ mẹ. Vì vậy, họ có số lượng con trai và con

gái bằng nhau (chắt).


>>KBZ 39:
Muốn nảy ra sáng kiến, hãy suy nghĩ vào lúc 22h04
Đi ngủ sớm và dậy sớm giúp bạn khỏe mạnh, giàu có và sáng suốt, đó là câu cách ngôn mà rất nhiều người

biết. Nhưng một nghiên cứu cho thấy, nếu muốn có nhiều ý tưởng mới, bạn không nên ngủ quá sớm.

Các chuyên gia của Đại học Newcastle, Anh, tiến hành phỏng vấn 1.426 người trưởng thành từng có những ý

tưởng hoặc phát minh mới. Khoảng một phần tư số họ cho biết những ý tưởng mới thường nảy ra vào giữa buổi

tối, trong đó số người nảy ra sáng kiến vào 22h04 chiếm tỷ lệ lớn nhất.

Trong khi đó, trái với suy nghĩ của nhiều nhà quản lý, rất ít người tham gia phỏng vấn nói rằng, họ từng nảy ra

những ý tưởng mang tính đột phá khi làm việc tại văn phòng vào ban ngày.

Vào buổi chiều, khi phần lớn cư dân Trái đất còn làm việc, 98% người tham gia khẳng định họ "không có cảm

hứng sáng tạo". Tình trạng đó trở nên tồi tệ hơn cho tới tận 16h33. Vào buổi tối, sự minh mẫn quay trở lại.

Khi được hỏi về biện pháp giúp não hoạt động hiệu quả hơn trong hoạt động sáng tạo, 44% nói rằng họ tắm vòi

hoa sen.

Nhiều nghiên cứu trước đây khẳng định rằng, ngay cả khi có khả năng sáng tạo bẩm sinh, hơn một nửa ý tưởng

mới của một con người sẽ biến mất vĩnh viễn ngay sau khi chúng vừa xuất hiện. Khi cảm hứng sáng tạo lóe lên,

58% số người tham gia không kịp lấy bút ghi ý tưởng mới ra giấy, để rồi sau đó quên mất.

Phụ nữ tỏ ra xuất sắc hơn nam giới trong việc ghi lại ý những ý tưởng hay nhất của họ cho thế hệ sau.

Một nghiên cứu do Đại học Sacred Heart ở Milan, Italy, tiến hành cho thấy một phần ba số người ở độ tuổi trên

35 thường ghi những ý tưởng mới trên mu bàn tay và những người thức khuya luôn đạt năng suất cao hơn trong

việc "sản xuất ý tưởng". Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những người không chịu gò mình theo các khuôn phép xã

hội có xu hướng tạo ra nhiều sáng kiến hơn.

Cũng theo một nghiên cứu mà các nhà khoa học của Đại học Newcastle tiến hành vào năm 2006 thì những

người làm công việc sáng tạo, như họa sĩ và nhà thơ, tỉnh giấc nhiều hơn người bình thường 2-3 lần trong suốt

cuộc đời họ.


>>KBZ 40:
Viễn cảnh thế giới năm 2030
Tị nạn khí hậu ở Nam Cực, đại dịch cướp đi hàng triệu sinh mạng, mỗi quốc gia chỉ còn cố đấu tranh để sinh

tồn, thế giới năm 2030 có thể sẽ như thế theo cảnh báo của nhiều chuyên gia. Nhưng chúng ta cũng có thể

chứng kiến những viễn cảnh đẹp, như sa mạc Sahara trở thành ốc đảo màu mỡ.

Cách đây vài ngày, các nhà khoa học cảnh báo rằng những mất mát do khủng hoảng tài chính quá nhỏ bé so với

những thiệt hại do con người gây ra đối với thiên nhiên. Mới đây, "Diễn đàn vì tương lai" (Forum for the Future) ở

Anh vừa đưa ra một dự báo không mấy tốt đẹp cho tương lai. Các đại biểu mở đầu với lời nhận xét: "Mức độ

nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đối với nền kinh tế sẽ nghiêm trọng chẳng kém gì khủng hoảng tài chính".

Trong báo cáo "Climate Futures", các chuyên gia phác thảo 5 kịch bản. Để làm nên báo cáo này, các tác giả đã

thăm dò ý kiến của 70 chuyên gia, trong đó có nhiều nhà kinh tế học và khoa học xã hội, nhà báo, nhà hoạt động

môi trường và chính khách. Bên cạnh những cảnh báo về khí hậu, báo cáo cũng đưa ra những viễn cảnh tốt đẹp.

Dưới đây là 5 kịch bản có thể xảy ra vào năm 2030:

Con người được cứu thoát nhờ công nghệ

Nhiều cải tiến, phát minh ra đời, giúp con người sử dụng năng lượng hiệu quả hơn và giảm thiểu lượng khí nhà

kính thải ra đến mức chúng ta hầu như không phải thay đổi lối sống. Kinh tế phát triển không bị kìm hãm.

Nhu cầu ngày càng tăng của tròn 8 tỷ con người sinh sống trên Trái Đất vào năm 2030 có thể sẽ được thỏa mãn

qua những mô hình kinh doanh và công nghệ mới. Thịt nhân tạo có thể nuôi sống hàng trăm triệu con người.

Các nhà máy xử lý nước biển thành nước ngọt hoạt động bằng năng lượng Mặt Trời sẽ biến đổi sa mạc Sahara

trở thành một vùng đất màu mỡ. Công nghệ nano giúp chúng ta tạo ra "bụi thông minh" để theo dõi môi trường

trong thời gian thực nhằm ngăn ngừa mọi thảm họa trước khi chúng xảy ra.

Cuộc cách mạng dịch vụ

Nền kinh tế của năm 2030 sẽ dựa vào dịch vụ nhiều hơn là công nghiệp. Các công ty sẽ phải bỏ ra nhiều tiền để

được thải khí CO2. Điều này sẽ thúc đẩy tính sáng tạo. Một dự án không phụ thuộc năng lượng của châu Âu

thành công và được áp dụng ở mọi nơi trên thế giới. Con người đi bằng xe đạp thay vì lái ôtô.

Kinh tế được xã hội hóa cực độ. Tất cả mọi thứ sẽ được nhiều người sử dụng chung vì mức độ hiệu quả: Do

máy giặt hay ôtô quá đắt đối với một cá nhân, hiện tượng nhiều người sử dụng một ôtô hay tiệm giặt công cộng

sẽ trở nên phổ biến.

Định nghĩa mới của tiến bộ

Kịch bản này giống như một không tưởng xã hội ra đời từ những khó khăn kinh tế. Trì trệ kinh tế toàn cầu từ

2009 đến 2018 bắt buộc con người, đặc biệt là trong những nước công nghiệp, phải chấp nhận một lối sống giản

dị hơn, làm cho người ta hướng nhiều hơn đến việc nâng cao đời sống tinh thần cá nhân và chất lượng cuộc

sống. Ở Mỹ, người ta làm việc 25 giờ/tuần cho chính mình và thêm 10 giờ cho cộng đồng.

EU giới hạn thời gian làm việc trong một tuần ở mức 27,5 giờ. Ngân hàng Thế giới đưa ra chỉ số đánh giá các

biện pháp cải tiến chất lượng cuộc sống. Hàn Quốc chủ trương cải thiện chất lượng cuộc sống thay vì phát triển

kinh tế. Con người vẫn làm việc, tiêu dùng và tạo ra của cải, nhưng quan điểm của họ với tiền bạc sẽ khác nhiều

so với ngày nay.


Ưu tiên bảo vệ môi trường

Trong kịch bản này, các chuyên gia mô tả "một thế giới phản ứng quá chậm trước biến đổi khí hậu". Các cuộc

thương lượng nhằm cho ra đời một thỏa thuận thay thế Hiệp ước Kyoto thất bại. Mỗi vùng trên thế giới đều theo

đuổi quyền lợi riêng. Thương mại quốc tế gần như không còn. Giá dầu tăng lên đến 400 USD/thùng. Các hộ gia

đình sẽ bị cắt điện nếu sử dụng quá nhiều. Khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ giảm dần, nhưng con người phải trả

giá bằng cách từ bỏ nhiều lợi ích cá nhân.

Ở vài nước, vợ chồng chỉ được phép có con khi được cấp giấy phép qua một hệ thống điểm. Sống thân thiện

với môi trường sẽ được thêm điểm.

Các hậu quả thảm khốc của tình trạng hủy hoại môi trường dẫn đến nhiều cuộc di dân quy mô lớn. Ngay cả Nam

Cực cũng trở thành đích đến của những dòng người lánh nạn. Khoảng 3,5 triệu người sẽ sống ở Nam Cực

trong năm 2040.

Trào lưu bảo hộ nội địa

Trong thế giới tối tăm của năm 2030, toàn cầu hóa bước vào giai đoạn thoái trào. Xung đột vũ trang vì tài nguyên

xảy ra ngày càng nhiều. Chiến tranh hóa học và sinh học nhằm tranh giành nguồn nước ở vùng Cận Đông để lại

hậu nhiều quả thảm khốc.

Hậu quả của tình trạng trên là sự lên ngôi của chính sách bảo hộ nội địa cực đoan do mỗi nước đều muốn bảo

vệ cái mà họ có. Giá cả tăng vọt, thương mại gặp khó khăn, nạn đói và dịch bệnh (trở nên trầm trọng hơn vì biến

đổi khí hậu) cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Các quốc gia đóng cửa biên giới do lo ngại dịch bệnh lan

truyền.

"Một ngày nào đó, thế giới có thể sẽ như thế. Có một vài khả năng không được tốt đẹp cho lắm. Có lẽ một ngày

nào đó các sử gia sẽ nhìn lại thời gian hiện nay và gọi nó là 'Những năm của biến đổi khí hậu'. Họ sẽ khen ngợi

thế hệ của chúng ta, nhưng cũng có thể nhìn chúng ta bằng con mắt ghê tởm - giống như cách chúng ta nhìn

nhận tình trạng mua bán và sử dụng nô lệ trong quá khứ", ông PeterMadden, chủ tọa "Diễn đàn vì tương lai", phát biểu.


.......................................................................................................................
Admin
Admin
Founder
Founder

Tham gia : 17/08/2009
Bài viết : 763


https://haihaua.forummotion.com/

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết