Hải Hậu A
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh

Go down

phân - TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh Empty TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh

Bài gửi by Admin 29/03/10, 09:00 am

TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh
Hình ảnh những người lính TÂY TIẾN qua nét vẽ của Quang Dũng đã hiện lên trong bài thơ cũng thật khác thường .Khác thường ở sự giankhổ cùng cực , ăn đói, mặc rét, bệnh tật , sốt rét đến xanh da trụi tóc, khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thể nào , ông đã dồn đúc các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả đoàn quân , dùng lối vẽ phiếm chỉ để khái quát nên chân dung tiêu biểu rất oai hùng của người chiến sĩ vô danh , dám xả thân vì nghĩa lớn ,đã khiến cho kẻ thù kinh hoàng khiếp sợ.

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Khác thường ở chỗ những người lính dũng mãnh ấy tâm hồn cũng thật dụi hiền và lãng mạng:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Nghĩ cho cùng , giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt ấy, nếu người lính không biết mơ mộng , thi vị hoá cuộc sống vì một mục đích cao xa hơn thì họ sẽ chết chìm trong hiện thực khắc nghiệt ấytrước khi ngã ngục vì viên đạn của kẻ thù . Chất men lãng mạng -mơ mộng nồng say ấy chính là phẩm chất giúp con người có sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh đê chiến thắng . Nhờ thế, mặc dù tác giả mô tả rất đậm sự gian khổ khốc liệt của chiến trường , của đời lính chinh chiến nơi miền Tây hoang vu mà bài thơ không đợm chút sắc màu u ám , bi quan nào khiến con người run sợ nản lòng.

Nét đặcsắc của ngòi bút Qang Dũng trong Tây Tiến còn ở chỗ ông viết về chiến tranh nhưng không có 1 chữ nào về trận đánh , về tiếng súng, về đau khổ hay về kẻ thù , bài thơ chỉ đơn giản nói về những người chiến sũ tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào- Việt Nam 1947 , nhưng người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh . điều lạ lùng là bài thơ có tới 3 lần , nhà thơ Quang Dũng nói tới cái chết của những chiến sĩ Tây Tiến trong những trường hợp khác nhau , nhưng không một lần ông nhắc đến từ chết hoặc hy sinh như các nhà thơ về sau vẫn dùng đến . Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã thay thế từ "chết"bằng các cụm từ giản dị :về đất , bỏ quên đời, hồn về...để hạ gam , bình thường hoá cái chết theo đúng quan niêm của các tráng sĩ cách mạng thời kì đầu kháng chiến còn đang tưng bừng đầy hào khí . Họ dám sả thân vì sự nghiệp độc lập - tư do của Tổ Quốc và họ biết rất rõ những gì chờ đợi họ khi họ dấn thân , nên đã coi cái chết " nhẹ tựa lông hồng " :

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Ở đây lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho chàng trai chất anh hùng và cả chất men say lang mạn đáng yêu nữa , ngay cả khi họ chết cũng phản phản phất nét tài tử :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Cho đến bây giờ , sau gần nửa thế kỉ đất nước ta đánh giặc , đã từng có rất nhiều bài thơ viết về sự hy sinh dũng cảm của người chiến sĩ trên chiến trường như : Núi Đôi của Vũ Cao , Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu...nhưng Tây Tiến vẫn có một vị trí đặc biệt và mang màu sắc riêng khó có bài thơ nào về sau này sánh nổi khi miêu tả sự hy sinh của người chiến sĩ ...

...Có thể nói Tây Tiến - đó chính là tượng đài bằng thơ bất tử mà nhà thơ Quang Dũng với cả tấm chân tình đã dựng lên để tưởng niệm cả 1 thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau cách mạng tháng tám đã hăm hở ra đi giữ nước và nhiều người đã không trở về.
Admin
Admin
Founder
Founder

Tham gia : 17/08/2009
Bài viết : 763


https://haihaua.forummotion.com/

Về Đầu Trang Go down

phân - TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh Empty Phân tích 2 khổ thơ đầu

Bài gửi by Admin 29/03/10, 09:02 am

Phân tích 2 khổ thơ đầu

Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời !

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”



* Bài làm

Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng.

Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên)… và “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua.

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”

Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”.

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh

“ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”.

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây Tiến" của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.
(sưu tầm)
Admin
Admin
Founder
Founder

Tham gia : 17/08/2009
Bài viết : 763


https://haihaua.forummotion.com/

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết